Nhàn đàm của Sao Hồng
Chẳng phải tự dưng mình cắc cớ hỏi vậy. Con nít 10 tuổi hỏi đấy . Tối hôm qua, mình đón cô út từ Nhà văn hoá Thiếu nhi về, nghe “nàng” thông báo: ”thứ Sáu này con được nghỉ học. Giỗ Tổ Hùng Vương. À, hôm qua ba đọc báo có nói người ta giỗ tổ… Lạc Long Quân. Thế Việt Nam mình có mấy ông tổ hở ba ?”. Mình tắc tị !
Ừ nhỉ ? Nếu cứ như báo đài đưa tin thì Việt Nam mình có mấy ông Tổ nhỉ ? Sỡ dĩ mình hỏi như thế là vì hai hôm liền 19/4 & 20/4, các báo đài đồng loạt đưa tin: Dâng hương Giỗ Quốc Tổ Lạc Long Quân.Thế mới có chuyện con gái mình hỏi: Việt Nam mình có mấy… ông Tổ ? He he…
Cũng như mọi người, chuyện Lạc Long Quân & Âu Cơ sinh ra 100 con từ bọc trăm trứng. Năm mươi con theo Bố lên rừng. Năm mươi con theo Mẹ xuống biển. Từ đó mới hình thành nên trăm tộc người Việt gọi là Bách Việt. Đó là truyền thuyết. Truyền thuyết thì do dân gian truyền miệng từ đời này sang đời khác mà nên. Không phải được ghi lại bằng sử sách hay chứng tích gì.
Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ và bọc trăm trứng trăm con là cách lý giải sự ra đời và hình thành cội nguồn con người các dân tộc Việt ngày nay của thời đại người Việt cổ hay trung cổ, khi chưa có khoa học phát triển như bây giờ.
Chắc chắn những ai là con dân Việt, đều biết câu ca dao: “dù ai đi ngược về xuôi/ nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Đó là ngày giỗ các Vua Hùng. Nơi giỗ là vùng đất cổ Hương Sơn (Phú Thọ) còn lưu giữ Chùa Hương Tích và đền thờ các Vua Hùng.
Vì sao ngày giỗ các Vua Hùng lâu nay được coi là giỗ Tổ ? Các nhà sử học nói rằng, chính thời đại các Vua Hùng mới có sự hình thành NHÀ NƯỚC (VĂN LANG). Còn trước đó chỉ là các bộ tộc bộ lạc rãi rác khắp vùng lúa nước ven Tây Thái Bình Dương này. Từ đó, người ta coi
Nhà nước Văn Lang là cội nguồn của nước Việt Nam ngày nay. Vì thế, ngày giỗ các Vua Hùng, mùng 10 tháng Ba lịch ta được coi là giỗ Tổ. Người dân Việt khắp nơi ghi nhận ngày giỗ Tổ đó dễ có đến cả mấy ngàn năm nay.
Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tại Đền Hùng, Bác Hồ căn dặn vệ quốc quân Đại đoàn Quân Tiên phong về tiếp quản Thủ Đô Hà Nội với lời dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải giữ lấy nước”, cũng là cách Nhà nước Việt Nam mới thời Cụ Hồ gián tiếp ghi nhận các Vua Hùng là người lập nước đầu tiên. xưng đáng là ông Tổ của Việt Nam ngày nay.
Đến con cháu các đời Vua Hùng thời nay lại lý luận bằng phương pháp luận… suy diễn mà rằng: nếu không có Lạc Long Quân thì làm gì có các Vua Hùng ? Tại sao lại không có đền thờ Lạc Long Quân ?
Có lẽ họ không phân biệt được truyền thuyết khác với lịch sử chăng ? Cứ luận theo họ thì các Vua Hùng là ông Tổ của Việt Nam. Còn Lạc Long Quân truyền thuyết là bố các ông Tổ. Nói nôm na là… Tổ bố ! Thế thì phải tạo ra đền thờ Tổ bố và tượng để thờ “Tổ… bố” chứ ! He he…
Nói là làm, năm 2007, người ta tạo ra một… dự án rồi dựng nên một ngôi đền trong khu vực Chùa Hương. Gọi là đền thờ… cha của các vua Hùng: Lạc Long Quân. Ông Tổ… bố ! (Chẳng biết căn cứ vào hình hài ở đâu để có tượng Tổ bố nhỉ ?)
Năm ngoái, sau 2 năm xây dựng người ta rùm beng làm lễ khánh thành đền thờ Lạc Long Quân (28/03/2009). Đủ các quan chức đến dự nha. Trước đó người ta đã cho đúc pho tượng ông Tổ… bố rồi (họ gọi là tượng “Quốc Tổ Lạc Long Quân”) tiến hành ngày 07/02/2009 tại khu vực đền Hùng. Rồi làm lễ “dâng hương” Tổ bố ngày mùng 6-3 Âm lịch (19/4/2010).
Còn tại sao lại là ngày mùng 6-3 thì chỉ có Trời mới biết ? Từ nay người ta sẽ “ăn giỗ” ông Tổ bố (Lạc Long Quân) vào ngày mùng 6 tháng Ba lịch ta và “ăn giỗ” các ông Tổ con (Vua Hùng) ngày mùng 10 tháng Ba.
Hợp lý nhỉ ? Chả nhẽ cúng Tổ bố lại sau ngày Tổ con ? Nếu cứ theo báo chí và đài phát thanh nhà nước các cấp thì ngày mô, 6-3 hay 10-3 cũng Quốc Tổ cả ! Rồi đây, người ta đưa ra Quốc Hội hợp thức hoá và quyết luôn những ngày giỗ các Quốc Tổ. Khi đó bà con ta tha hồ mà được nghỉ lễ cả tuần ! Sướng nhé ! He he…
***
Vậy thì có gì là đáng bàn nào ? Tốn tiền bạc ư? Không thành vấn đề. Khi đã “phú quý thì sính lễ nghĩa” thôi. Các cụ dạy thế. Lại thêm có đền có tượng từ nay có thêm điểm để hốt bạc… lẻ nhé ! Làm ăn phải thế chứ ! Thì cũng như Tây đó thôi. Cậu Rô-mê-ô và cô Giu-li-ét từ văn học bước ra cuộc sống và mang tiền về cho nước Anh thì đã sao?
Vấn đề ở đây là từ một truyền thuyết dân gian, các nhà sử học mấy chục đời nay chưa có cơ sở để chứng minh hay làm sáng tỏ ông Tố bố là ai. Nay nó được “hợp thức hoá” bằng các quyết định “hành chính nhà nước”. Rồi cái truyền thuyết gắn liền với những huyền sử mơ màng chàng Chữ Đồng Tử và nàng Tiên Dung. Hai chàng Sơn Tinh – Thủy Tinh đánh nhau để giành cháu gái ông Tổ bố trong các trang sách thiếu nhi đã bước ra đời sống hiện đại sau mấy ngàn năm, mấy chục ngàn năm tại vùng đất cổ Phú Thọ.
Thế mới có chuyện con trẻ học lớp 3 lớp 4 lại cắc cớ hỏi bố mẹ. “Việt Nam mình có mấy ông Tổ ? Mình đang lo ngày mai, con mình lại hỏi. “Tại sao chỉ cúng Lạc Long Quân mà không cúng Âu Cơ hở ba ?
Ừ nhỉ ? Không có Tổ bà thì lấy đâu có “trăm trứng” để mà có con đàn chắt đống ngày nay ? Tổ bố có bằng thánh cũng đố rặn được trăm trứng ! Biết đâu, nay mai Hội Phụ nữ Việt Nam lại lên tiếng đấu tranh và phê phán các ông mà rằng: “đến như giỗ Tổ mà còn trọng nam khinh nữ” !
Ôi thôi thôi ! Rắc rối quá đi ! Mà khó trả lời con trẻ quá !
Các câu hỏi đó đâu phải nêu ra ở giữa cuộc hội thảo khoa học lịch sử để mà lý giải bằng các công trình khảo cứu sử học, trình bày chứng cứ khảo cổ, chứng mình bằng kỷ thuật các bon đồng vị 16, 18 hay 21 ?
Các câu hỏi đó cũng đâu phải nêu ra trên các tạp chí khoa học, các diễn đàn chính thức và không chính thức để mà các chuyên gia quốc tế quốc nội khắp nơi bàn luận mổ xẻ ?
Có nhà quản lý văn hoá nào; có nhà sử học nào; có thầy giáo dạy sử nào,… sau khi chứng kiến tham dự các lễ hội “khánh thành” “dâng hương”, “rước tượng” Tổ nêu trên đã bao lần tự hỏi : Việt Nam mình có mấy ông Tổ ?
Với mình, là ông bố, sinh ra và lớn lên trong khói lửa chiến tranh kéo dài hơn phần tư thế kỷ. Thoát đựợc chiến tranh đã là may mắn nói chi đến có được trình độ uyên thâm về lịch sử khảo cổ, lý luận học, chính trị học lô gíc học,… để mà trả lời ngay cho đứa trẻ lên 10 bằng một câu đơn giãn ?
Thôi thì để khỏi “lo bò trắng răng”. Mình xin nợ con mình câu hỏi: Việt Nam mình có mấy ông Tổ ? Nhưng chắc chắn các nhà sử học, các nhà quản lý cũng nợ các thế hệ trẻ thuộc dòng máu Lạc Hồng câu hỏi: VIỆT NAM ƠI, MÌNH CÓ MẤY ÔNG TỔ ?
S.H.
Để tham khảo cho câu hỏi “Nước mình có mấy ông Tổ”, tôi xin gửi đến quý vị 2 bài “Văn tế Quốc Tổ Hùng Vương” và “Văn tế Quốc mẫu Âu Cơ”
VĂN TẾ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG
Kính nghe rằng:
Nguồn sống, vốn từ vô thủy , Bát ngát vô chung .
Lẽ đạo, vẫn hằng bất sanh, Thênh thang bất diệt.
Nhất đái Trường Sơn, thiêm tăng tuế nguyệt ,
Giống Tiên Rồng .
Vạn đại dung thân , Xuân mãn Càn Khôn trời Lạc Việt.
Vị lai thuộc hậu côn.
Kim nhựt trung tiết liệt.
Mười lăm bộ Văn Lang , Nhân phẩm tự Lan Hinh .
Mười tám đời Hùng Vương , Hư tâm hiệu trúc tiết ,
Đất Cửu Phong Châu…
Vạn lý Trường Giang .
Miền xưa Nghĩa Lĩnh… Thiên thu minh nguyệt .
Đông Sơn , Ngọc Lu , Văn minh rạng rỡ, Rìu Đá, Trống Đồng .
Bạch Hạc , Văn Lang, Vương quốc tinh khôi ; hoa vàng trúc biếc .
Hăm sáu thế kỷ: một triều Hùng khai phá…
Khổ công phu .
Bốn ngàn niên linh: Trăm họViệt hưng long…
Chân tuấn kiệt.
Mười hai tháng ba, giỗ chính tế Lạc Long Đức Cha .
XÃ TẮC ĐIỆN KIM ÂU
Mồng sáu tháng ba, giỗ chính tế Âu Cơ Đức Mẹ;
SƠN HÀ HUY NGỌC KHUYẾT.
Một duyên lành, gắn bó sâu xa .
Hai ngày giỗ, liên quan mật thiết .
Hào cửu ngũ, quẻ Ký – Tế , ấy hào dương
(Biểu tượng Lạc Long) :
Hạnh dung hòa , mở lối Tâm Linh.
Hào Lục Nhị , Quẻ Ký – Tế , ấy hào âm
( Biểu tượng Âu Cơ ;
Đức trung chính , khơi nguồn minh triết).
Đôi quẻ hào , chở vẹn di ngôn
Đôi ngày giỗ, gói tròn thông điệp
Dạ báo đền , công cha như núi Thái Sơn
Kể mấy cho vừa .
Lòng tưởng nhớ , nghĩa mẹ như nước trong nguồn ,
Nói sao cho xiết .
Hôm nay, giỗ tổ Hùng Vương,
Bài văn tế thắp nén tâm hương vạn đời.
Ngưỡng mong doãn nạp!
*******
VĂN TẾ QUỐC MẪU ÂU CƠ
Nhà nào có mẹ thì nhà đó có hạnh phúc, nước nào có mẹ thì nước đó có hạnh phúc, có cơ hội trường tồn.
Mẹ, chính là hồn của nhà, hồn của nước. Hơn thế nữa, mẹ chính là hồn của con người hồn của vũ trụ.
May mắn thay! Nước Việt mình từ ngàn xưa đã có mẹ: Mẹ Âu Cơ. Mẹ sinh trăm trứng nở trăm trai, cho chúng ta ngày nay có văn hóa đồng bào.
Cố kết keo sơn giống nòi ta, dân tộc ta để mãi mãi: “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”
Ngày hôm nay lần thứ một ngàn (1000), một vạn, một triệu, chúng ta dâng lễ kỷ niệm, tưởng niệm Mẹ Âu Cơ và điều đặc sắc nhất của lễ tưởng niệm Mẹ hôm nay ngày 06 tháng 03 năm Canh Dần, là niềm nhận thức sâu sắc nhất, trọn vẹn nhất của tất cả bà con chúng ta hiện diện trong ngày hôm nay, về ý nghĩa của nó:
Đó là cái nguyên lý của tình yêu của sự nhất thể, của tâm linh thể hiện nơi người mẹ: Mẹ Âu Cơ, mẹ của toàn thể giống nòi Bách Việt, giúp cho dân tộc ta, như trên đã nói: đã, đang và sẽ được trường tồn cùng nhật nguyệt.
Kg : Anh Huỳnh uy Dũng,
Nếu anh đúng là người tự giới thiệu trong còm vừa rồi ở entry về bà ts Đổ ngoc Bích (bài nói về văn hóa tranh luận) thì tôi rất ngạc nhiên đấy Sao anh đổi tên vậy, cứ để nguyên là Huỳnh Phi Dũng, hay thẳng thắn hơn như mọi người thường gọi anh từ trước đến nay : Dũng Lò vôi, đại gia đất Bình Dương, thậm chí của cả nước !
Cực kỳ ngạc nhiên vì còm trước anh tự giới thiệu về mình, và PR Đại nam lạc cảnh một cách ‘thẳng thắn’ như thế, đây đâu phải là trang quảng cáo như VN express …, hay ít ra anh cũng phải xin phép bọ Lập và chi tiền quảng cáo chứ !
Cực kỳ ngạc nhiên nữa vì qua 2 cái còm trên, tôi mới biết dạo sau này anh quan tâm nhiều đến văn học, về văn hóa dân tộc đến như thế !
P/S : nói gi thì nói, tôi cho rằng 2 cái còm vừa qua của Huỳnh Uy Dũng trên quê choa , không phải là do “Dũng lò vôi’ viết, mà là do anh chàng trợ lý nào đó làm vui lòng chủ bằng cách này ! làm như thế còn hơn là chửi vào mặt chủ đó anh trợ lý ơi, đừng có mà như thế. Ai cũng biết trình độ kinh doanh, kiếm xiền của anh Dũng, kể cả trình độ văn học của anh Dũng, làm thế người ta lại bảo là có tiền mua gì cũng được, mua chữ cũng được.
Xin thất kính với anh Dũng !
Uy Dũng tôi xin được tặng bạn NCB 1 tập kinh thơ sau đây, xem như đây là câu trả lời cho comment vừa rồi:
LỜI THƯA
Tại, Bị … là tiếng đầu cửa miệng của mọi người trên đời này. Khắp thiên hạ từ Vua cho đến dân, già đến trẻ, tăng cho đến tục, ai ai cũng không tránh khỏi, không nhắc đến hai tiếng ấy. Trong ngôn ngữ thường trực của mình. Vì sao? Vì Tại, Bị … suy cho cùng chính là thực tiễn là định luật, là bản chất của cuộc nhân sinh. Mỗi mỗi kiếp người không trừ một ai, đều nằm trong quyền lực của “ Bị, Tại” chịu sự tác động của nó chẳng dễ thoát ra ngoài. Mọi sinh vật, trong đó có con người, có thể có những ảo tưởng về sự chủ động của mình trong cuộc sống, thực tế tất cả đều chẳng thoát khỏi sự tác động của những điều Bị này Tại kia. Nó khiến cho mọi hành vi, thành bại của con người trở nên hạn chế rất nhiều chẳng khác gì thân phận một con rối, một con vụ – quay và cuồng dưới lực tác động thoát ra từ chỗ khác, từ người khác, phải tự do mình. Lực ấy, lực tai quái ấy, theo quan điểm của nhà Phật có tên là nghiệp lực. Do từ vô minh mà có, vô minh từ vô thủy. Tạo thành Tham, Sân, Si thành Mạn, Nghi thành ngã chấp, pháp chấp tất cả các mối “hầm bà lằng” ấy tạo nên một cái lực rất nên tai quái quấy đảo con người.
Khiến con người như trên đã nói, mất hết thế chủ động – không làm chủ được mình, mỗi mỗi đều “ Bị”, “Tại”.
Từ đó mà sinh ra biết bao thảm kịch – thảm kịch đời người.
Tên Cùng Tử ăn mài, ăn xin, đầu đường xó chợ, bèo dạt hoa trôi. Thân phan rong rêu, nếu muốn thoát khỏi thân phận ấy của mình, chỉ còn mỗi một cách là tìm lại được Viên Ngọc của chính mình. Viên Ngọc tên gọi là Như Lai Tạng Tánh, Phật Tánh, Chân Tâm.
Mà muốn tìm gặp lại Viên Ngọc chính mình ấy thì phải có “chút công phu”.
Tập thơ Tại này trân trọng cống hiến pháp môn công phu ấy.
TẠI…?
Nhân sinh bách tuế vi kỳ (1)
Cũng vì hai chữ Tại Vì mà ra
Đời người trăm nỗi phong ba
Cũng do chữ Tại gây ra phong trần
Mọi đoạn trường kiếp trầm luân
Thảy đều do chữ Tại lần khôn kia
Tại là bởi tại, tại vì
Nói gọn là Tại tham sân si mà…
Trăm năm trong cõi người ta
Đầu nguồn khổ hận chính là cái tham. (10)
Ví không có chữ tham lam
Lấy chi nhân loại lầm than như vầy.
Bốn phương nam bắc đông tây
Thảy do Tại bị tham này nhiễu nhương
Khác chi ngựa chứng không cương
Hất tung xuống vực người đang cưỡi mình
Tham danh, tham lợi, tham tình
Tham phúc lộc thọ khương ninh (2) bộn bàng
Vì tham mà dạ chẳng an
Có mong có nữa, tham càng tham hơn. (20)
Nhân sinh một kiếp vô thường
Có ai vạn thọ vô cương bao giờ ?
Vì tham cái thọ vu vơ
Nên bao kẻ học đòi vua Thủy Hoàng.
Đi tìm huyễn hoặc (3) tiên đan
Những mong bất lão để tràng sinh chơi
Nhưng thử xem ở trên đời
Có ai thọ được tuổi trời ngàn năm?
Ví dù Bành Tổ hay chăng
Chẳng qua huyền thoại (4)sao trăng đỡ buồn. (30)
Nhân sinh bách tuế đạo thường
Bóng câu qua cửa, hạt sương treo cành
Kiếp người quả thật mong manh
Nhưng bên trong có chữ thành kim cương
Chữ thành thể hiện thiên lương
Để cho cuộc sống nên hương nên trầm.
Ở đời mà có thành tâm
Thì dù cuộc sống ngang tầm phù du
Nhưng bên trong cái hư phù(5)
Vẫn long lanh cái thiên thu gương rằm. (40)
Trở về chữ Tại trăm năm
Tại lòng tham, để mù tâm mặt trời
Để mù tâm cả nụ cười
Chỉ còn suối lệ trào khơi ái hà! (6)
Tham danh tham lợi sa đà
Nhứt là tham chính cái ta của mình.
Cái ta của nhục của vinh
Của Lục Dục, của Thất Tình lao đao. (7)
Cái ta thọ mệnh là bao
Chẳng qua một hạt mưa rào bể đông. (50)
Có thì có đó mà không
Vậy mà sao lắm chông gai đọa đày!
Cũng vì cái chữ Tại này
Tại vì…Bởi Tại… Thày lay lật lường
Như con Vụ múa quay cuồng
Tại vì … bởi Tại … dập dồn sức quay
Sức nào tạo sức quay đây
Sức tham, sân, với si này chớ ai
Sức tham tạo lực dong dài
Làm quay con Vụ mãi hoài không ngưng. (60)
Làm sao cho con Vụ dừng
Hễ dừng chữ Tại thì ngưng quay cuồng
Gẫm ra trong cõi Càn Khôn(8)
Nguyên lai chữ Tại cội nguồn nhân duyên
Nếu không Chữ Tại làm nền
Lấy gì Tam Giới dựng nên công trình
“Ba gian nhà lửa” trong kinh
Cũng do chữ Tại tạo sinh mà thành.
Tại tham: tham lợi, tham danh
Tham hương, tham sắc, tham mình tham ta. (70)
Tham ăn tham ngủ sa đà
Tham mà chẳng đặng ắt là nổi sân.
Chữ tham mà nặng nghìn cân
Thì chữ sân cũng mười phân kém gì
Lực tham đẩy bước mình đi
Khác chi ngọn sóng cuốn về biển đông
Lực sân như ngọn lửa hồng
Tiêu tan cả vạn cánh đồng phì nhiêu
Bao công trình của tình yêu
Nhân gian gây dựng rất nhiều cưu mang. (9) (80)
Chỉ cần một thoáng “sôi gan”
Thế là nát đá tan vàng còn chi
Lửa sân hung hiểm cực kỳ
Nó là cái lực Tại Vì … thứ hai.
Đưa người tới bước chông gai
Để cho nhân thế rạc rài (10)tấm thân
Nhất tham nhé! tới nhì sân
Mà tham sân nọ rất gần gũi si
Bộ ba khắn khít cực kỳ
Hễ có tham ắt có si … tam tài. (11) (90)
Ba cô con gái nhà ai
Bề ngoài hấp dẫn trong thời xấu xa
Con nhà họ Tại ấy mà!
Tại vì Tại bởi cho ta đoạn trường
Con người muốn rước an khương
Phải thong dong giữa đạo trường an nhiên. (12)
Nhưng cái chữ Tại không hiền
Nó luôn đánh lẫn con đen mập mờ
Mượn màu tham đẹp như mơ
Mượt mà óng ả như cô láng giềng. (100)
Lại còn đổi họ thay tên
Chữ tham lại mạo danh nên chữ thành
Thành là thành đạt thành danh
Thành công, thành tựu… nghe hoành tráng sao!
“Thành nhân chi mỹ” (13)ngọt ngào
Biết bao vọng ngữ (14)gây bao não phiền
Gây bao vọng tưởng (15)đảo điên
Giở trò dục bị xuôi nguyên tưng bừng.
Khiến cho lực Tại không dừng
Cứ gây cảnh “chẳng- đặng -đừng” trêu ngươi. (110)
Tại vì… vì Tại…thương ơi!
Bao giờ mới tự Tại đời tự do
“Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu”
Vì chân Bờm đã thấu đầu tỏ đuôi
Rằng sinh ra kiếp con người
Chẳng chi quý bằng nụ cười hồn nhiên
Nụ cười Tại chỉ thần tiên
Nụ cười tri túc siêu nhiên siêu trần. (120)
Nụ cười đương sứ tức chân
Nụ cười tự Tại vạn xuân Việt Thường(16)
Vì sao Âu Lạc “ mười thương”
Là vì Tự Tại nó nhường bước cho
Để cho quê mẹ thơm tho
Nghìn năm còn vút giọng hò mang nhiên (17)
Trở về chữ Tại nhãn tiền
Bao đời nó quậy đảo điên nhân quần
Từ cái tham qua cái sân
Cái tham sân nó xoay vần qua si. (130)
Si là mê muội chớ chi
Mê muội, mê mẫn, mê si, mê lầm.
Chữ si hoặc chướng trong tâm
Phủ che lớp bụi mờ câm mặt trời.
Hỡi ơi! hạt ngọc tâm người
Vương mang lớp bụi ngàn đời si mê
Ngọc mà phân hóa thế kia
Lấy chi tỏa ánh diệu kì kim cương
Vì sao tơ nhện mà vương
Là vì một cái chữ thương nhân mười. (140)
Một thương đã hệ lụy đời
Huống chi nhân chín nhân mười lần thêm
Có điều “thương” cũng chẳng “hiền”
Là vì đối tượng chẳng bền chắc chi.
Một là cái sắc hương kia
Xinh thì xinh thật thơm thì có thơm
Nhưng đâu giữ được trường tồn
Bóng câu qua cửa, (18) ánh gương qua mành
Hai là “tướng tự tâm sanh”
Tâm thương thì xấu cũng thành dễ thương. (150)
Mà khi tâm đã ghét hờn
Thì Mẫu Đơn cũng xấu hơn hoa hèn
Cái tâm cái tướng bon chen
Cái thương cái ghét cũng chèn lấn nhau
Thương mà không được thì đau
Thương mà cắt mạch thì sầu ba thu.
Huống chi thương nó ngục tù
Huống chi thương nó ao tù quẩn quanh.
Huống chi thương nó đành hanh(19)
Nó se màng nhện dệt thành cùm gông. (160)
Cái thương mê muội cái lòng
Tiêu ma (20)trí tuệ, suy vong tinh thần
Đưa người tới chốn vong thân
Tự dưng đánh mất cái chân tâm mình
Chỉ còn mường tượng bóng hình
Của ai, ai đó cho mình mình đây.
Thương ơi mặt mũi xưa nay
Tự dưng do cái thương này mà đau
Thương và đau đi với nhau
Như dây trầu với thân cau đi cùng. (170)
Một duyên hai nghiệp não nùng
Đó duyên ấp đó nhịp chung điệu vần
Duyên là duyên nợ theo nhân
Nghiệp là nghiệp chướng theo thân tâm này
Nợ duyên nghiệp chướng sâu dầy
Cũng vì một chữ si này mà ra
Tham sân si ấy Tam Ma(21)
Cũng là Tam Độc, cũng là Tam Tai
Tạo nên lực Tại dong dài
Tại vì, bởi Tại…cho ai não phiền. (180)
Ở đời nếu có thần tiên
Là vì nhứt nhựt nhàn nên tiên thần
Nhàn là tự Tại thanh tâm
Là không bị Tại nó vần nó xoay
Vượt qua ba cái lực này
Ắt là hành giả nhập ngay Niết Bàn.(22)
Ở đời không Tại mới an
Ở đời bị Tại thì tan tác đời
Coi chừng bị Tại ai ơi!
Trong nơi bể khổ rước người trầm luân. (23) (190)
Ngoài ba cái lực tham sân
Si mê hoặc chướng nó vần xoay ta
Còn hai cái lực trầm kha(24)
Trước là lực mạn sau là lực nghi
Mạn là ty mạn tự ty
Mạn là kiêu mạn, khinh khi ngạo đời
Ty mạn: cam đứng dưới người
Tự cho mình cát bụi đời rong rêu
Kiêu mạn, ngỡ mình cao siêu
Đứng trên thiên hạ, hiu hiu mặt mày. (200)
Kiêu, ty: cũng một mạn này
Thói hư khinh mạn… kiêu đầy, ty vơi
Kiêu, ty nghĩ cũng hư đời
Tạo nên lực tại xoay người đảo điên
Đứng không vững ngồi không yên
Cũng vì cái chữ mạn phiền não kia
Sau chữ mạn là chữ nghi
Tại vì… bởi Tại… cũng vì nghi nan.
Trong bao điêu đứng thế gian
Cái điêu đứng của nghi nan đứng đầu. (210)
Ai mà muốn được sống lâu
Ai mà muốn khỏi đau đầu nhức tim
Ai mà muốn được bình yên
Thì nên tìm cách vượt trên nghi tình
Nếu như có một cực hình
Làm tình làm tội chúng sinh cực kỳ.
Cực hình ấy chính là Nghi
Nó làm khô héo Hoa Quì hướng dương
Nó làm vỡ nát kim cương
Nó làm băng hoại cương thường (25)tâm linh (220)
Nó làm cái đẹp hết xinh
Nó làm cái bạch cái trinh ố bùn
Nói sao hết nỗi đoạn trường
Của người lỡ “bán linh hồn” cho…Nghi!
Linh hồn lỡ bán một khi
Thì dù có nó xác chi không hồn
Hỏi ai trong cõi Càn Khôn
Chưa từng nếm nỗi đoạn trường của Nghi.
Nỗi chua nỗi chát nỗi gì
Nỗi cay nỗi đắng nỗi chi trên trần (230)
Mà đem sánh với nghi tâm
Thì xem ra cũng khó phân ít nhiều.
Cái nghi tác quái tác yêu
Giật dây con Vụ thiếu điều xác xơ
“Nên ra tay kiếm tay cờ”
Chẳng nên thì chớ chẳng nhờ tay ai
Nam nhi hán tử anh tài
Ấy do sức tự Tại oai dũng thần
Còn như những kẻ phàm nhân
Suốt đời bị Tại nó vần nó xoay. (240)
Khác gì con Vụ quay quay
Gẫm ra mỗi cái múa may vai hề
Vương mà chi tướng mà chi
Những người bị cái “Tại Vì” nó “thương”
Trăm năm trong cõi mộng thường
Gẫm ra một Tại: cội nguồn trầm luân
Khiến ai dan díu cõi trần
Đi, về ….một xác phàm nhân vật vờ
Ai rằng cuộc sống là thơ
Ai rằng cuộc sống là tờ tâm kinh (250)
Nếu không tự chủ lấy mình
Thì muôn năm cũng lục bình trôi sông
Cũng vì chữ Tại đúng không?
Tại vì bởi tại cuồng ngông não phiền.
Đứng không vững, ngồi không yên
Cũng vì cái chữ Mạn phiền não kia.
Ngoài chữ Mạn là chữ Nghi
Tại vì: bởi vì…cũng vì Nghi nan
Đứng đầu Ngũ Độc là tham
So ra, Nghi chỉ đứng hàng thứ năm (260)
Nhưng… tuy thứ bậc không bằng
Mà xem ra cũng “lục lăng” (26) kém gì!
Trong năm cái độc, độc Nghi
Khác chi ngọn lửa A Tỳ Ngục (27) trung
Nó thiêu đốt, nó nấu nung
Nó làm cháy rụi cả trong lẫn ngoài
Cháy vóc hạc, cháy hình mai
Cháy mình lại cháy cả ai bên mình
Đôi khi cháy cả quên mình
Độc Nghi hóa lửa đốt sinh mệnh đời (270)
Độc Nghi hóa lửa đốt người
Độc Nghi hóa lửa đốt trời đất luôn
Độc Nghi đầu mối ghen tuông
Độc Nghi đầu mối thua buồn khổ đau
Vì sao có trước không sau
Có sau không trước có đầu không đuôi
Vì chân Ngũ Độc hại đời
Hại câu nhân nghĩa hại đời thủy chung
Độc Nghi tác hại vô cùng
Gây nên Trang Huấn ngang cung cây đàn (280)
Đàn ai tích tịch tình tang
Đôi dây lỗi nhịp tào khang chi tình(28)
Lời dù vàng đá đinh ninh
Mà lòng đã chớm Nghi tình phu thê
Chồng “Mìn” (29)sao lạ quá tề
Sáng nay dậy sớm trao chia râu mày
Hay là “hắn” dở bày bay
Với cô hàng xóm mặt mày như mơ
“Dò sông dò biển dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người” (290)
Tri nhân tri diện dễ rồi
Lòng sâu dạ thẳm ai người tri tâm
Chồng “Mìn” mặt mũi thấy hâm(30)
Lại còn liếc ngó mấy lần trong gương
Lòng cô vợ nọ ghen hờn
Nỗi Nghi nó lớn còn hơn bầu trời
Nó che lấp cả cuộc đời
Nó che lấp cả nụ cười tương giao(31)
Độc Nghi nó độc làm sao
Nó đổ mực vào trang giấy trắng tinh (300)
Làm cho pho sử ba sinh(32)
Thắt đau lắm mực đen sình dở dang
Nhưng đâu mỗi chuyện riêng nàng
Chuyện nghi là chuyện thế gian hai người
Nhứt là đôi lứa, lứa đôi
Nghi Tâm len lõi vào chơi- chơi vào
Nàng mà Nghi Hoặc làm sao
Thì chàng cũng Hoặc Nghi bao nhiêu lần
Rằng: “ Cô Mụ” quá lần khân(33)
Nam nữ thụ thụ bất thân kia mà! (310)
Cớ sao chẳng giữ nếp nhà
Cứ thấy “Chả” “ Mụ” bại A thần phù(34)
Ngày nào tình hẹn thiên thu
Mới qua đôi nhịp hát ru chung bè
Gã Nghi đã ngáy tè te
Dục giục quân tử máu me ghen hờn
Một khi Nghi đã vào tuồng
Thì Bị, thì Tại, nó dồn dập ta
Khiến ta trôi dạt Nại Hà (35)
Ba chìm bảy nổi giữa ba đào lòng (320)
Cuộc đời nhân loại long đong
Cũng vì năm thứ độc lòng vòng kia
Độc Tham trăm nỗi ê chề
Độc Sân trăm nỗi tái tê rụi tàn
Độc Si trăm nỗi bẻ bàng
Độc Mạn trăm nỗi dở dang phận người
Độc Nghi trăm nỗi rối bời
Cho đời nhân loại hóa đời rong rêu
Vì chân Bị, Tại rất nhiều
Nó làm hai chữ Tiêu Diêu, (36)Tiêu Đời (330)
Làm người muốn xứng phận người
Phải vượt Bị, Tại rong chơi chín tầng
Trở về Tự Tại viên chân(37)
Viễn ly Ngũ Độc Tham, Sân, Si và…
Một khi Ngũ Độc tiêu ma
Thì Bị, thì Tại cũng là trò chơi
Bị, Tại nhiều lắm ai ơi!
Vì Bị vì Tại nên đời chúng sanh
Một khi Bị, Tại ngưng hành
Thì chúng sanh sẽ hóa thành Như Lai (340)
Để mà tự tại hôm mai
Ung dung khuya sớm khoan thai trưa chiều
Một đời Tự Tại tiêu diêu
Viễn ly điên đảo, triệt tiêu mê lầm
Ngoài năm thứ độc trong Tâm
Còn bao Bị, Tại trong tầm nhân sanh
Tâm vô thường: (38) Bị, Tại hành
Đã vô thường: dễ chi mình tự do
Sáng vừa thương: lấy chi dò
Chiều đã ghét lấy chi đo đạt chừ! (350)
Thương thương ghét ghét sật sừ
Bị Bị Tại Tại lắc lư lật lường
Đã không chủ được lập trường
Lấy chi Tự Tại để thương, để chừ
Những lời nguyện ước xuân thu
Lấy chi giữ được thiên thu bây chừ
Ngâm ca thiên hạ ngàn thu
Mấy ai khỏi Bị, Tại như Phật Đà
Mắt kia không đốm không hoa
Tâm kia không thiết không tha mộng tình (360)
Mũi, lưỡi vượt ngoài vị, hương
Mắt mà vượt sắc, tai mà vượt thanh
Duyên trần thập nhị loanh quanh
Vô minh thành thức xưng danh sắc này
Để vào lục nhập thày lay
Cho Ái, Thủ, Hữu, đọa đày tấm thân
Một vòng sinh tử trầm luân
Đa đoan (39)lão bệnh thì thầm vô minh
Tâm vô thường: giống hữu tình
Pháp vô ngã: kiếp chúng sinh hư phù (370)
Như ráng như móc phù du
Như tia chớp giật, như mù sương bay
Chẳng qua giả hợp thân này
Có chi tự ngã xưa nay miên trường (40)
Đã không tự ngã thiên lương
Lấy chi tự tại để thường tiêu diêu
Để tròn hai chữ tình yêu
Thì thôi Bị, Tại là điều thế gian
Trong Tứ Niệm Xứ (41)viên toàn
Có thân bất tịnh chẳng an chẳng lành (380)
Cứ luôn bị Bị, Tại hành
Tại mưa Tại nắng Tại anh Tại nàng
Tại bệnh tật- chẳng an khang
Tại dơ bẩn chẳng cao sang ngọc ngà
Vì thân là thế nên ta
Mãi bị Bị, Tại phiền hà tấm thân
Nếu thân trong giá trắng ngần
Vượt qua nhơ bợn như thân Phật Đà
Thì trăm Bị, Tại phiền hà
Còn đâu chỗ để lê la trược phiền (390)
Trong Tứ Niệm Xứ sâu hiền
Còn thọ thị khổ nó truyền pháp âm
Rằng bao thứ thọ trên trần
Thọ danh giá- thọ kim ngân- thọ tình
Thọ mai – thọ trúc xinh xinh
Thọ phúc lộc thọ khương ninh bộn bàng
Bao nhiêu thọ bấy nhiêu mang
Có bao nhiêu, khổ lại càng bấy nhiêu
Có nhiều, Bị, Tại càng nhiều
Càng nhiều Bị, Tại càng chiêu xích xiềng (400)
Đi không vững đứng không yên
Như con Lật Đật xuống lên tự người
Như con rối nọ rối bời
Chẳng qua Bị, Tại tại đời giật dây
Ngoài “ Ngũ Độc” nó thày lay
Ngoài, “ Vô, Bất, Thị” nó đọa đày ta *
Còn bao nông nổi phiền hà
Gây bao Bị, Tại khiến ta quay cuồng
Hỡi ơi! Tam chướng (42)thảm thương
Vì mi thiên hạ đoạn trường lắm thay! (410)
Một là phiền não chướng đầy
Là Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi này đó thôi!
Hai là nghiệp chướng đầy vơi
Tự bao đời tự bao đời vô minh
Cái thương mê muội cái lòng
Tiêu ma trí tuệ tiêu vong tinh thần
Đưa người tới chốn vong thân
Tự dưng đánh mất cái Chân Tâm mình
Chỉ còn mường tượng bóng hình
Của ai ai đó, cho mình mình đây (420)
Thương ơi mặt mũi xưa nay
Tự dưng do cái thương này mà đau
Thương và đau đi với nhau
Như dây trầu với thân cau đi cùng
Một duyên hai nghiệp não nùng
Có duyên ắt có nghiệp chung điệu vần
Duyên là duyên nợ theo nhân
Nghiệp là nghiệp chướng theo thân Tâm này
Nợ duyên nghiệp chướng sâu dày
Cũng vì một chữ si này mà ra (430)
Tham Sân Si ấy tam ma
Cũng là tam độc, cũng là tam tai
Tạo nên “Bị, Tại”dong dài
Tại Vì Bởi Tại… cho ai não phiền
Để cho mình gặp lại mình
Một lời vàng đá ba sinh vuông tròn
Nghiệp kia gánh nặng mỏi mòn
Nghiệp thân, khẩu, ý biển non trập trùng
Chia thành bốn loại lao lung
Một, Cực Trọng Nghiệp (43)vô cùng nặng sâu (440)
Nghiệp này quyết định đời nhau
Đưa người chỉ lối kiếp sau luân hồi
Hai, Cận Tử Nghiệp (44) ấy thời
Một người sắp sửa xa rời cõi dương
Thì trong giây phút lên đường
Cái trạng thái Tâm Thức đương sự này
Sẽ mang tính quyết định thay
Cho trú sở của người này kiếp sau
Cho nên năng lực nguyện cầu
Qua những sám nguyện từ câu kinh vàng (450)
Kinh cầu siêu, kinh cầu an
Quả là vô lượng… giữa đàn tràng kia!
Ba, Tập Quán Nghiệp(45) những gì
Một người quen thói hành vi trong đời
Sẽ thành nghiệp lực để rồi
Dẫn đường dẫn lối cho người… kiếp sau
Bốn, Tích Lũy Nghiệp (46)– dồi dào
Những thiện những ác chen nhau trập trùng
Hóa thành nghiệp lực lao lung
Cho ta, Bị,Tại nghìn trùng khổ đau (460)
Bốn nghiệp nọ bổ sung nhau
Đưa đường chỉ lối mai sau phận người
Trong bao lực Tại trên đời
Cái lòng Ngã Chấp (47)nó thời vô song
Nếu đời có chữ long đong
Nếu đời có chữ lòng vòng quẩn quanh
Nếu đời có chữ tử sanh
Có ba gian lửa nó, dành cho nhau
Thì nguyên thủy của xưa, sau
Cũng do mối Ngã Chấp sâu nặng này (470)
Nghĩ thương cái thức thày lay
Nó nuôi Ngã Chấp tối ngày sáng đêm
Cho Ngã ngày một lớn lên
Càng lớn càng Bị, Tại thêm vô ngần
Cái lòng Ngã Chấp bất nhân
Cứ ngỡ Ngũ Uẩn (48)là Chân thể mình
Đâu hay Sắc, Thọ, Tưởng, Hành
Hợp thành cái thức đành hanh chỉ là
Cái Vọng Tâm của người ta
Còn như cái đích, thực là Chân Tâm (480)
Vốn đứng ngoài cái Ngã nhân
Cái căn nọ với cái trần duyên kia
Cái Chân Tâm chẳng đi về
Chẳng thường đoạn, cũng chẳng hề tử sanh
Chẳng hề Bị, Tại loanh quanh
Vốn như như một đức thành hiếu sinh
Thương yêu pháp giới hữu tình
Một nguyền phổ độ (49)sinh linh vạn loài
Cái Chân Tâm ấy Như Lai
Chở bao la một bản hoài Từ Bi (490)
Trở về cái Ngã Chấp kia
Vì ngộ nhận giả, gã kia là mình
Nên tự sinh một mối tình
Gọi là Ngã Ái, (50)thật rình thật rang.
Thật loay hoay, thật buộc ràng
Thật đỏng đảnh, thật nghêng ngang đủ điều
Cũng vì cái Ngã tự yêu
Sinh ra đủ thức Ty, Kiêu ỡm ờ (51)
Như con tằm nọ nhả tơ
Tự mình trói buộc mình vô kén mình (500)
Bên cạnh Ngã Ái vô minh
Là lòng Ngã Mạn (52)coi mình thật to
Ngỡ mình là cái vốn no
Trung tâm vũ trụ ai so cho bằng
Chính vì Ngã Mạn lăng nhăng
Mà Bị, mà Tại hầm bà lằng… ta
Cho ta trôi dạt ái hà
Mười hai bến nước biết ra lối nào!
Ngoài cái Ngã Mạn tào lao
Còn bao cái Ngã, cái nào Ngã hơn (510)
Chỉ hay mỗi Ngã luôn tuồng
Điều mang những Bị, Tại- nguồn khổ đau
Cho người- con Vụ thiên thâu
Cứ quay theo lực “Ai Đâu” vận hành
Chưa hề theo lực chính mình
Để cùng Tự Tại long lanh nụ cười
Muốn thoát khỏi “Bể Luân Hồi”
Muốn thoát khỏi cái “Ngã Tôi” lèn èn
Cái Ngã Ngũ Uẩn hư hèn
Chúng ta cần phải, một phen, tách rời (520)
.
Cái xưa rày tưởng là “Tôi”
Để cho cái “Bóng” nó rơi khỏi “Hình”
Để cho mình trở lại mình
Cái Ngã Ba La Mật(53) xinh như rằm
Cái Ngã của chính pháp thân
Gồm “ Thường- Lạc- Ngã- Tịnh” chân Phật Đà
Cái Ngã Tánh vốn đang là
Cũng là Phật Tánh nguy nga chân thường
Lạ lùng! Ba mối tai ương
Cũng do mối Ngã Chấp thường tạo sinh (530)
Nhưng một khi dẹp Ngã tình
Lại, thay vào, một Ngã xinh như rằm
Ấy là cái Ngã tròn trăng
Của Như Lai tạng thường hằng như thơ
Ngã này rất đỗi tinh mơ
Chẳng còn vương chút dây tơ dây tằm
Trói đời trong cái trói trăn
Của Bị với Tại, của “ trăng” với “đèn”
Dài với ngắn, trắng với đen
Của thiện với ác, của sen với bùn (540)
Một cái Ngã rất chân thường
Một cái Ngã rất càn khôn tuyệt cùng
Cái Ngã vô thủy vô chung
Cái Ngã Đại Lực- Đại Hùng- Đại Bi
Một cái Ngã rất Hài Nhi
Không tên không tuổi không đi không về
Không đắn đo, không hẹn thề
Rất viễn ly- rất vô vi: Niết Bàn
Một cái Ngã rất khinh an
Rất vô ngã- bởi chính đang là mình (550)
Một cái Ngã rất vô tình
Lại vô duyên nữa như kinh nhất thừa
Một cái Ngã rất nên thơ
Vì chân Tự Tại là bờ bến kia
Bấy giờ trong cõi vô vi
Cõi không còn Bị- Tại- Vì… linh tinh
Sẽ tròn một đóa sen xinh
Như Liên Hoa Diệu Pháp Kinh bạch lòng
Nơi Chàng Cùng Tử long đong
Sẽ tao ngộ chính mình trong cội nguồn (560)
Hóa ra mình- kẻ đầu đường
Kẻ cuối chợ: kẻ như ươn như hèn
Kẻ lún mình giữa bùn đen
Hóa ra mình kẻ bon chen rạc rài
Lại là trưởng tử Như Lai
Thong dong Tự Tại chẳng ai sánh tày
Nhưng sao cớ sự như vầy
Chẳng qua chữ Tại mình đây quên… mình
Vong thân tha hóa… tội tình
Với trăm Bị Tại, linh tinh buộc ràng (570)
Một khi vượt khỏi thế gian
Với trăm Bị,Tại làng chàng nọ kia
Để an trụ cõi Bồ Đề
Chân xếp Tự Tại tay xòe tự do
Không còn nhận chẳng còn cho
Không còn bận chẳng còn lo- tuyệt trần!
Bấy giờ trong cõi pháp thân
Trong cõi đương xứ tức chân- nghĩa là
Cõi không người, cõi không ta
Không đi không lại không ra không vào (580)
Cũng không Ngũ Uẩn lao xao
Cũng không Ngũ Độc mãi thao túng đời
Không Lục Tặc trớ trêu người
Không Bát Khổ luống ngậm cười thế gian
Cõi xinh trên đại Niết Bàn
Tứ vô lượng khéo đăng quang nụ cười
Từ, Bi, Hỷ, Xả (54) toát vời
Tứ đức Ba La Mật ngời trăng sao
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh tiêu dao
Vượt qua cửa vũ để vào Long Hoa (590)
Vì sao gọi cõi ấy là
Cõi không người cõi không ta? Ấy vì
Ta, người vốn chẳng phân chia
Vốn là một, chẳng có gì là hai
Cũng như giọt nước sông dài
Vốn là một chẳng Đông Đoài với sông
Con sông vốn nó đại đồng
Có chia Nam Bắc Tây Đông nỗi gì
Làm chi trong khối sông kia
Lại có giọt nước phân ly một mình (600)
Cũng vì Tại cái linh tinh
Của Lục Dục, của Thất Tình mà nên
Làm cho giọt nước thành riêng
Chỉ nhớ cái bóng mà quên cái hình
Lục Dục cộng với Thất Tình
Nó làm nên cái Tại Mình, Bị Ta
Lục Dục, sáu dục ấy mà!
Một là Sắc Dục, ấy là lòng tham
Cái bóng cái sắc của “Nàng”
Cái bóng cái sắc của chàng đẹp xinh (610)
Khiến ta dan díu với tình
Con tằm dệt kén trói mình vào trong
Cho mình Bị Tại long đong
Chẳng bao giờ đặng thong dong cõi ngoài
Hình Mạo Dục đứng thứ hai
Lòng tham mắt phượng mày ngài đối phương
Cũng vì hai chữ “Mười Thương”
Mà Bị, Tại nó hốt hồn người ta
Uy Nghi Tư Thái Dục là
Cái lòng ham dáng văn hoa của người (620)
Khi đi đứng, lúc nằm ngồi
Toát ra một vẻ tuyệt vời uy nghi
Khiến mình những muốn “ ăn chia”
Hòa đồng muôn sự một khi cho đành
Rồi đến Ngữ Ngôn Âm Thanh
Cái dục do tiếng yến oanh ngọt ngào
Đêm ngày mường tượng chiêm bao
Vì chưng tiếng ngọc ai trao lời vàng
Trương Chi ơi! Một tiếng đàn
Vì mi để bụng can tràng Mỵ Nương (630)
Tế Hoạt Dục thêm đoạn trường
Thịt da ai khéo mịn màng thế ni
Trắng ngần như thể trà my
Khiến ai như dại như si nỗi niềm
Vì không được cận kề bên
Ba thu khắc khoải tiếng Quyên gọi sầu
Nhân Tướng Dục não lòng nhau
Mặc ai xinh đẹp cho đau lòng mình
Ấy là Lục Dục tâm linh
Là kinh của Phật dạy tình thế gian (640
Dạy rằng: Bị, Tại đa đoan
Cũng vì Lục Dục gieo oan nghiệt đời
Khổng Giáo cũng có đôi lời
Luận về Lục Dục hại người như sau
Một là Danh vị công hầu
Cái danh nó cột người vào cùm gông
Hai là cái Lợi long đong
Trường danh, chợ lợi cái vòng oan khiên
Ba là Sắc- mối đảo điên
Một là nghiêng nước, hai nghiêng thành mà! (650)
Mỹ nhân quan quả thực là
Anh hùng há dễ vượt qua ải này
Bốn là Tư Vị riêng tay
Gian tham vạn kẻ, thẳng ngay mấy người
Năm là Hư Vọng dối đời
Dối mình là một, dối người là hai
Sáu là Tật Đố ghen hoài
Ghen hiền ghét ngó, ghen tài ghét năng
Sau là dục nó lăng xăng
Làm cho bị tại hầm bà lằng nhau (660)
Bên anh Lục Dục xà ngầu
Còn Thất Tình nọ cũng đâu kém gì
Hỷ, Nộ, Ai, Cụ li bì
Thêm Ái, Ố, Dục… Tại vì tùm lum
Vì không Hỷ, Nộ luông tuồng
Ắt Bị với Tại khôn lường múa may
Như con vụ nó không dây
Lấy đâu lực đẩy nó quay mòng mòng
Cũng vì Ái, Ố lòng vòng
Nên Bị, nên Tại mới hòng lung lăng (670)
Người đời tham đó bỏ đăng
Tham Lê bỏ Lựu tham trăng bỏ đèn
Lòng tham dục tánh bon chen
Một phen sống vội, một phen yêu cuồng
Mấy đời bánh đúc có xương
Cái lòng “Ố” chẳng dễ thương tí nào
Ố người người ố chứ sao
Muốn đừng bị ố phải vào tình thương
Một khi mình biết yêu thương
Thì bao nhiêu ố sẽ chìm xuống thôi (680)
Cái đáng sợ nhất trên đời
Ấy là chữ “Cụ” ôi thôi kinh hoàng
Cụ là cái sợ thế gian
Có ai chẳng sợ khi đang là mình
Có ai từ lúc “hình thành”
Từ trong bụng mẹ chưa sanh ra đời
Rồi cho tới lúc nằm nôi
Cho tận lúc sắp về chơi suối vàng
Mà không Bị “cụ kinh hoàng”
Nó làm nát đá tan vàng đời sen (690)
Sợ là cái “tội tổ tiên”
Sinh ra đã sợ- di truyền vậy thay!
Sợ làm bủn rủn chân tay
Tối cả mặt, tắt cả mày người ta
Sợ thần, sợ quỷ, sợ ma
Sợ đàn ông, sợ đàn bà, sợ nhau
Sợ từ ngọn gió tàu cau
Sợ qua hạt thóc lá trầu nằm nghiêng
Sợ tang hải, sợ thương điền
Sợ già sợ bệnh, sợ điên, sợ khùng (700)
Sợ làm Bị, Tại lung tung
Càng Bị càng Tại càng khùng càng điên
Cái vòng Thập Nhị Nhân Duyên
Nó gây Bị, Tại triền miên không ngừng
Suốt từ vô thủy vô chung
Cái vô minh nó hành hung con người
Vô minh không tiếng không lời
Không hình không bóng không trời không trăng
Thế nhưng trong cõi mù tâm
Lại mang huyền lực bản năng phi thường (710)
Đẩy ta vào cảnh đoạn trường
Thành hình cơ thể thịt xương con người
Từ vô minh tuyệt mù khơi
Mà hành thức giận vui đời chúng sanh
Qua danh sắc được hình thành
Để cho Lục Nhập* tập tành nhân duyên
Cho Ái, Thủ, Hữu triền miên
Vô văn Bị, Tại dựng nên hý trường
Với kiếp người như hạt sương
Như bèo như bọt vô thường phù du (720)
Vậy mà chồng chất xuân thu
Thành sầu biển lệ âm u vạn đời
Cũng Bị, Bị Tại trêu ngươi
Khiến quay con vụ kiếp người trầm luân
Mười hai duyên nọ làm nhân
Một lần Bị Tại, một lần duyên sinh
Khởi đầu từ cái vô minh
Khi mình chưa gặp được mình đấy thôi
Khi ta chưa tỏ mặt người
Tâm chưa truyền ấn tâm- ôi não nùng (730)
Trong vô minh rất mịt mùng
Ẩn hành kia thức nọ trong tâm này
Cái hành cái thức thày lay
Nó Bị, nó Tại suốt ngày suốt đêm
Hỡi ơi! Ngũ Uẩn* triền miên
Mỗi Bị, mỗi Tại gây phiền phức tâm
Khiến cho danh sắc bổng trầm
Kết tinh nên cái nhân thân đọa đày
Với Lục Nhập hiện tiền này
Nhẫn Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân gây não phiền (740)
Kết thành cái Y triền miên
Kết thành Bị Tại liên miên không dừng
Cho Ái, Thủ, Hữu tưng bừng
Một yêu thì phải giữ chưng cho mình
Giữ thì phải có đinh ninh
Và thế là có Ba Sinh đoạn trường
Sinh già bệnh chết tai ương
Với Bát Khổ, Bát Nạn tương sanh hoài
Khổ kia vốn tự lòng người
Nạn kia vốn tự lòng người mà ra (750)
Khổ Tập Diệt Đạo* ấy mà
Một Bị một Tại cho ta Bị hành
Vì sao ta lại Bị hành?
Vì ta chưa thể tự thành, thế thôi!
Vì sao chưa tự thành đời
Vì ta chưa rõ con người của ta
Cái con người thực ấy mà
Cái con người thực Phật Đà nói lên
Con người thực Phật đặt tên
Vượt qua Bị Tại vượt lên Niết Bàn (760)
Nghĩa là cõi tự xênh xang
Tự do, Tự Tại muôn vàn tự tâm
Vì sao cát lỡ bụi lầm
Vì ta chưa rõ được chân tâm mình
Một khi qua bóng tỏ hình
Ắt chẳng còn Bị cái “tình” nó “tan”
Hữu tình là thói thế gian
Vô duyên là ánh hào quang đại từ
Một khi vào cõi như như
Thì tâm vô lượng đại từ vô duyên (770)
Rộng thương chẳng kể ngu hiền
Đại bi đồng thể một uyên nguyên này
Những gì, Bị Tại thày lay
Trong cõi tâm này đã sạch sành sanh
Bên Từ Bi sáng long lanh
Lại còn Hỷ Xả trong xanh nhẹ nhàng
Niềm an lạc xuất thế gian
Vượt ngoài điều kiện hoàn toàn tự nhiên
Niềm vui Thiền Duyệt vô biên
Từ giây một, cái hiện tiền trong veo (780)
Xa là bỏ, chẳng mang theo
Một tâm vô lậu Tỳ Kheo Thích Già
Trong Tứ Vô Lượng ngọc ngà
Những Bị những Tại ắt là tiêu vong
Trên đường đi tới thong dong
Vượt qua Tứ Bệnh* mới xong Niết Bàn
Một là Tác Bệnh ràng ràng
Ấy là tác ý mình đang tu từ
Đã tác ý, tức hữu vi
Đã hữu vi tức vô vi bức thành (790)
Hai là Nhậm Bệnh rành rành
Cái bậy, nghĩ rành, gánh vác đảm đương
Để cầu tuệ giác kim cương
Ba là Chí Bệnh bàng môn- ngỡ lầm!
Hễ ngưng vọng tức là chân
Ai hay viên giác tự thân vô cầu
Bốn là Diệt Bệnh ngỡ đâu
Diệt trừ phiền não, mưu cầu tuệ tâm
Cái tâm, thân lẫn căn trần
Một phen diệt triệt ắt chân Niết Bàn (800)
Ắt tâm Phật tuệ kim cang
Ai hay viên giác chẳng can dự gì
Tâm mà vô bệnh một khi
Ắt Bị ắt Tại hết đi hết về
Niết Bàn là trở về quê
Thành Phật là lại trở về hành ta
Cái ta đang có chẳng qua
Là cái ta Bị, Tại ta chính mình
Cái ta có bóng không hình
Cái ta Ngũ Uẩn vô minh rạt rài (810)
Cái ta dở khóc dở cười
Cái ta đau đáu của đời người ta
Cái ta của Ngũ Ấm ma
Cái ta của thức mạt na lộng hành
Cái ta tự đánh mất mình
Cái ta vụn vặt linh tinh lọc lường
Cái ta vị sắc thanh hương
Đắm mê Ngũ Dục chán chường phàm thân
Cái ta như gánh nợ nần
Nó Bị cái Tại xoay vần đảo điên (820)
Gọi là Thập Nhị Nhân Duyên
Để thoát Bị, Tại phải nên tu trì
Tu là sửa mà sửa chi ?
Ngay trước mắt phải sửa thì là thân
Cái thân đồng thể cái thân
Ấy nghĩa Trung Đạo thậm thâm vi huyền
Thân yên tâm mới lặng yên
Thân phiền tâm ắt chịu phiền não theo
Một tâm hồn đẹp cao siêu
Trong một thân thể sớm chiều kiện khang (830)
Ấy là lẽ ngọc lời vàng
Trung Đạo* đệ nhất nghĩa càng thắm xinh
Muốn tu muốn sửa thân mình
Phải giữ giới luật lời kinh dạy rằng:
Không tửu sắc, chẳng sát sanh
Một khi thiểu dục ắt thanh tâm hiền
Thanh tâm thiểu dục tương liên
Thân tâm tương hỗ ắt yên mọi bề
Năm điều giới cấm trên kia
Thoắt nghe như chẳng có gì cao siêu (840)
Nhưng khi thực hiện ít nhiều
Mới hay cuộc sống có chiều đổi thay
Ai mà giữ được thân này
Bớt Sát, Dâm, Vọng, bớt say sưa đời
Ắt mình sẽ được thảnh thơi
Thân mà khỏe mạnh tâm thời an vui
Thân tâm đã khỏe vui rồi
Ắt trí tuệ sẽ sáng ngời lương tri
Giữ giới Sát, mở từ bi
Tâm từ đã mở, thân thì an khang (850)
Giữ giới: “Đạo” tâm nhẹ nhàng
Tâm nhẹ thân cũng nhẹ nhàng theo tâm
Diệu kì là giữ giới Dâm
Tinh hóa khí, khí hóa thần ai ơi!
Một khi tâm thiểu dục rồi
Thân mà tráng kiện rạng ngời trí nhân
Giữ lòng trong sạch như băng
Ăn ở ngay thẳng nói năng thật thà
Ấy là giới vọng đó mà
Giới năng khéo giúp đời ta an lành (860)
Khỏe vui thân ấy đã đành
Thiện nhân tâm ấy để dành mai sau
Ngụ ngôn kể chuyện như sau:
Có gã nọ tội chướng sâu vô ngần
Bấy giờ xuất hiện vị thần
Phán rằng tội chết đáng dành phần ngươi
Nay ta cho chọn một thôi
Trong ba chọn một tội thời dung tha
Một là lấy lửa đốt nhà
Ba gian cháy rụi ta tha tội liền (870)
Hai là giết chết mẹ hiền
Ba là mua rượu uống liền một khi
Gã nọ nghĩ hai việc kia
Quả là trọng tội, tội gì ta mang!
Thôi thì có việc bình thường
Là việc uống rượu chẳng can tội gì
Một phen cạn nghĩ cạn suy
Gã bèn chọn rượu tức thì nốc say
Nào ngờ rượu nốc quá tay
Khiến tâm điên loạn đốt ngay nhà mình (880)
Đốt xong cho tận tội tình
Lại cầm dao giết mẹ mình thương yêu
Ngụ ngôn nhắc nhở một điều
Rượu là mối hại bao nhiêu cuộc đời
Rượu làm điên loạn tâm người
Lại làm bạc nhược thân người đắm mê
Tắt một lời: những ai kia
Muốn vượt bể khổ sông mê đoạn trường
Để đừng Bị Tại cầm cương
Thong dong tiến bước lên đường Phật Tiên (890)
Phải gìn Ngũ Giới* cao nghiêm
Phát huy Tam Học mới nên đạo người
Một khi Ngữ Giới nghiêm rồi
Ắt tâm thanh tịnh, ắt người kiện khang
Chẳng còn Bị Tại đa đoan
Ắt thân tâm sẽ vào trang định thiền
Nghĩa là tĩnh lặng như nhiên
Chẳng còn Bị Tại đảo điên quấy rầy
Giới Định Tuệ nẻo đường ngay
Giới kia sinh Định, Định rày Huệ khai (900)
Huệ là cái trí Như Lai
Thấu suốt trong ngoài trên dưới xưa sau
Hue là cái đức nhiệm mầu
Khiến ta thực chứng thiên thâu là mình
Cái mênh mông của hữu tình
Cái bao la của vô sinh cũng là
Hue là cái thấy “không xa”
Để Thường Lạc Ngã Tịnh là Như Lai
Trong niềm tuệ giác viên khai
Cái Bị cái Tại rạt rài trầm luân (910)
Chẳng còn chỗ đứng trung quân
Để thay con tạo xoay vần chúng sanh
Tam Học: cõi Phật an lòng
Rỡ ràng Tam Ấn long lanh Tam Thừa
Tam Ấn đạo lý ngàn xưa
Một là chư hạnh Xuân Thu vô thường
Hai là chư pháp mười phương
Thảy đều Vô Ngã chẳng tồn tại chi
Ba là Niết Bàn vô vi
Ba dấu ấn nọ khắc ghi trọn đời (920)
Tam Thừa là một ai ơi!
Chiếc bè nào chẳng đưa người qua sông
Vượt qua bể khổ mênh mông
Lượn sóng Tam Ái bềnh bồng nổi trôi
Cho ta Bị Tại luân hồi
Biết bao giờ trở lại đời như nhiên
Nay Tam Chủng Ái oan khiên
Một, Cảnh Giới Ái: Rất nên buộc ràng
Khiến ta vào mối luyến tham
Vợ con, nhà cửa, bạc vàng, công danh (930)
Hai, Tự Thể Ái: yêu mình
Tất tần tật những gì thành ra ta
Mặt mày, râu tóc, xương da
Tư duy tình cảm, tài hoa, tinh thần
Những gì kết cấu nhân thân
Lòng yêu tự thể: muôn phần đa mang
Ba, Nguyên Sanh Ái: buộc ràng
Ấy niềm khát vọng muôn vàn thiết tha
Của hồn Thi Sách* lìa xa
Vẫn mong được tái sanh mà hưởng dương (940)
Đã đành nhẫn độ đau thương
Những Bị cùng Tại nhiễu nhương kiếp người
Nhưng mấy ai ở trên đời
Phút lâm chung đã muốn rời thế gian
Hầu như hết thảy nhân loài
Chỉ mong trở lại thế gian vô thường
Để mà hưởng thú đau thương
Những Bị cùng Tại dẫn đường trầm luân
Trải qua Tam Đạo phong trần
Một, Phiền Não Đạo, tham sân si này (950)
Cũng là hoặc đạo si ngây
Con đường bóng tối phủ vây đất trời
Hai, Nghiệp Đạo- nẻo đường đời
Thể hiện Nhân- Quả luật nơi kiếp trần
Thời, tùy xuân hạ thu đông
Vận, tùy thiện ác phân nhân quả đều
Nhân hiền gặp quả thương yêu
Nhân ác gặp quả bấy nhiêu não nề
Ba, Khổ Đạo, nẻo dầm dề
Những nước mắt với máu me đoạn trường (960)
Tam Đạo ấy ba nẻo đàng
Khổ nhiều vui ít muôn vàn đắng cay
Quả kia cũng tự nhân này
Do tâm si hoặc chẳng hay chính tà
Ba nẻo nhân cũng một mà
Ấy là ác đạo cho ta lụy phiền
Phải tu Tam Định sâu huyền
Vượt hết Bị Tại, mới nên Phật Đài
Một, không Tam Muội ấy là
Soi thấu các pháp Ta Bà đều không (970)
Chẳng qua giả hợp lông bông
Hai vô tướng Tam Muội- không tướng “mình”
Ba, vô nguyện Tam Muội tình!
Chẳng nguyện ước, chẳng tác sinh nỗi gì
Ngại vô cầu khéo uy nghi
Vô đắc, khéo thuận tùy chúng sanh
Tâm Tam Muội thật ơn lành
Cho ta thóat Bị, Tại thành tự do
Vui cùng Tam Nhẫn thơm tho
Một Âm Hưởng Nhẫn! nghe cho tỏ tường (980)
Để mà thấu suốt thiên lương
Hai, Nhục Thuận Nhẫn! Nhịn nhường chúng sanh
Nhịn nhường hoàn cảnh chung quanh
Một khi nhịn đặng xứng danh đại hùng
Nhẫn là khó nhất đúng không?
Ba, Vô Sanh Pháp Nhẫn: nhân thân rằng
Mọi sự vật chẳng thường hằng
Chẳng có tự ngã có chăng cũng là
Thấu rằng: “chẳng có” sanh ra
Nên sanh sức nhẫn gọi là vô sanh (990)
Với ba đức nhẫn an lành
Chẳng còn Bị, Tại nó hành hạ thân
Nương theo Phật tánh Tam Nhân
Hàng hàng thiện tính quyết tâm tu trì
Chánh nhân Phật tánh nghĩa gì?
Ấy là tánh Phật sẵn ghi trong mình
Nó là tự thể vô sinh
Nó là tự ngã bình sinh thường hằng
Vương theo tính Phật tròn căn
Mà xinh mà đẹp mà rằm … viên chân (1000)
Hai, là Phật tánh hiếu nhân
Vương theo trí huệ dấn thân tới hoài
Cuối cùng ắt gặp Như Lai
Ba là Phật tánh hóa hoài duyên nhân
Khai phát công đức thậm thâm
Thành tựu Phật quả mười phân vẹn mười
Cõi tâm vô thượng thảnh thơi
Chẳng còn Bị, Tại xoay đời đảo điên
Nương theo Tam Pháp hiện tiền
Một tâm bất thối đi lên Phật Đài (1010)
Một là giáo pháp Như Lai
Ấy là Tam Tạng* chứa lời thuyết minh
Ấy là Thập Nhị Bộ Kinh
Gồm Kinh, Luật, Luận phân minh rạch ròi
Hai là hành pháp tuyệt vời
Ấy là pháp Phật gồm nơi Tam Thừa
Một là Tứ Đế công phu
Khổ Tập Diệt Đạo như như hiện tiền
Hai là Thập Nhị Nhân Duyên
Chiếu kiến duyên khởi nên Duyên Giác Thừa (1020)
Ba là Lục Độ công phu
Ấy hạnh Bồ Tát đại thừa giác tha
Chúng sanh Bị Tại sa đà
Thanh Văn, Duyên Giác vượt qua vô thường
Từ hỏa nội đắc thanh lương
Công phu Lục Độ mở chương Đại Thừa
Hạnh Bồ Tát quả du du
Chẳng còn Bị Tại như như Niết Bàn
Ba là chứng pháp vẹn toàn
Ấy pháp chứng đắc lành trong Tam Thừa (1030)
Lời vàng Đức Phật muôn xưa
Nương Tam Phật Ngữ khéo vừa chúng sanh
Một tùy tự ý ngữ lành
Là lời Phật tự ý mình bảo ban
Thuyết minh chân lý vẹn toàn
Hai tùy tha ý ngữ: nương thỉnh cầu
Của người học đạo nông sâu
Khế cơ đối trị ngõ hầu lợi tha
Tùy tự tha ý ngữ là
Phối hợp cả Tự cả Tha vuông tròn (1040)
Vương Tam Phật Ngữ vàng son
Mở Tam Phật Tánh diệu thường xưa nay
Một, tự tánh trụ tròn đầy
Ấy là Tánh Phật xưa nay vốn là
Hai, tánh Phật dẫn xuất ra
Ấy công phu định Thiền Na phục hồi
Tánh Phật sẵn trong mọi người
Chẳng qua tập nhẫn thói đời bạc đen
Một khi lọc sạch bùn đen
Tánh Phật ắt trổ hoa sen tuyệt vời (1050)
Ba, chí đắc quả rạng ngời
Một phen Bị Tại hết thời lung lăng
Bấy giờ nguyệt tỏ gương rằm
Phật Tánh hiển lộ vinh thăng Phật đài
Vượt qua Bị Tại dong dài
Trước nhờ Ngũ Giới cho ai vững vàng
Tiến lên những bước Niết Bàn
Sau nhờ noi dấu bước đàng Tam Quy
Một là qui Phật Mâu Ni
Hai là qui Pháp huyền vi Phật Đà (1060)
Ba: qui Tăng bậc xuất gia
Hiện thân sứ giả của nhà Như Lai
Ngoài quy y Phật bên ngoài
Ngoài qui y Pháp, Tăng ngoài thân tâm
Còn qui y Phật, Pháp, Tăng
Qui y Tam Bảo bên trong chính mình
Tự Qui Y Phật tròn xinh
Trọng niềm đương nguyện chúng sanh thệ nguyền
Giải mình đại đáo uyên nguyên
Phát tâm vô thượng tam thiên Phật Đà (1070)
Tự Qui Y Pháp bao la
Trong niềm đương nguyện thiết tha vô ngần
Thâm nhập kinh tạng thậm thâm
Trí huệ như hải mười phân vẹn mười
Tự Qui Y Tăng tuyệt vời
Trọng niềm đương nguyện kiếp đời chúng sanh
Thảy hết đại chúng xung quanh
Nhất thiết vô ngại vô sanh Niết Bàn
Tự Tam Qui. Vậy- rõ ràng
Là mở Tam Trí vẹn toàn Tam Thân.
Hết!
* Tác phẩm được xuất bản bởi NXB Tôn Giáo, số XB: 1013-2009/CXB/03-309/TG ngày 5 tháng 11 năm 2009.
Pingback: CÙNG ĐÀM THOẠI VỚI NGÀI ĐẠI SỨ HOA KỲ MICHAEL MICHALAK « Freelecongdinh's Blog
Pingback: CÙNG ĐÀM THOẠI VỚI NGÀI ĐẠI SỨ HOA KỲ MICHAEL MICHALAK « Ba Sài Gòn – lảm nhảm chuyện đời
Pingback: CÙNG ĐÀM THOẠI VỚI NGÀI ĐẠI SỨ HOA KỲ MICHAEL MICHALAK « Nhà văn Phạm Viết Đào
He he… Bác Đào giơ tay chào em mà em cứ tưởng như ngài cố lãnh tụ Trung Hoa nhân dân cộng hoà quốc là Mao chủ tịch (phiên âm tiếng Hán em quên rồi) đang chào khích lệ em đấy !
Vinh hạnh ! Vinh hạnh !
Hảo lớ ! Hảo lớ !
He he…
hehehe, đọc báo thấy nước ta bắt đầu làm Giỗ nhiều ông Tổ quá, bản thân em cũng hoang mang, cứ tưởng đọc nhàn đàm của anh SH xong thì sẽ có ngay câu trả lời. Ai dè anh cũng kính chuyển câu hỏi lên trên.
Ẩn sau vỏ bọc hài hước là cả một vấn đề thực đâu đầu mà người viết muốn gởi tới…
( Dr. SH giỏi lắm)
He he… “kính chuyển” lên… Ngọc Hoàng thì được !
Còn câu trả lời của mình là chuyện thờ tự ai thì để dân (lòng dân) tự quyết định và từ lo. Đừng thổi nhân vật huyền thoại lên hàng “quốc tổ” mà tốn tiền đóng thuế của dân !
Biết đâu, vài chục năm nữa, con cháu mình chứng minh được rằng: Hốt Tất Liệt là ông tổ của người Việt ngày nay thì lúc đó lại xây đền thờ tiếp a ?
Ha ha….
Đúng rồi nước ta trong 1 năm cần phải có ít nhất là 4 ngày giỗ tổ, thứ nhất là giỗ “Tổ Bọ” tức Lạc Long Quân vào ngày mùng 6 tháng Ba lịch ta và giỗ các ông “Tổ con” (Vua Hùng) ngày mùng 10 tháng Ba, sau đó là giỗ ông “Tổ đỏ” là C.Mac(1883) hay lenin (1924) tuỳ nhà nước quyết định giỗ ông nào, và còn một ngày nữa vào ngày 2/9 ( trước đây thường giỗ vào 3/9) chưa biết gọi là giỗ “tổ” gì nữa. Xin các bọ cho ý kiến còn ngày giỗ nào nữa không?
” Đại An Nòi Giống.’R’ ” kô biết giỗ ngày nào?
Pingback: 3 trăn trở mới của các Bọ Quechoa! « CafeĐen … cứ vui thôi
Nhờ các Bác có lời với Bộ văn hóa răng không thờ Kinh Dương Vương (Bọ Lạc Long Quân, Và ông nội Vua Hùng) cho có tổ có Tông mà cũng có thêm Lich sử dân tộc hơn 2000 năm nũa. Kinh Dương vương 2879 TCN Còn Hùng Vương TK 7 TCN. 3 đời trực hệ cách nhau hơn 2000 năm nên các Cố Tổ của giòng giống miềng thọ ra phết. Mà chắc chắn rứa thôi vì hồi nớ Cố Tổ miềng có biết chiếu rượu Vodka có đến 4222 lít mô. HU U. Hồi nớ mà biết có rượu Vôdka chắc Lang Liêu không thèm nấu bánh dầy bánh chưng cũng được nối ngôi. Lang Liêu chừ chỉ cần cúng rượu ngoại, gái đẹp và phong bì dày là nối ngôi tuốt tuốt dù có đứa chưa phổ cập phổ thông. Hu u. Ý mà em cũng ham mấy thứ nớ chứ nói chi vua thời ni. Hi ic.
Chắc có rồi bác nờ ! Nhưng dự án chưa được phê duyệt đó thôi !
He he..
(wikipedia) ( Đâu phải ĐVSK… Tàu Hi i )
Hồng Bàng
Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa Hạ từ phương Bắc.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỉ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỉ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, đẻ một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.[1]
Theo thuyết này, người ta cho rằng từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỉ được chia ra thành những nước nhỏ, gọi là Bách Việt, dù điều này không có ghi chép lịch sử xác nhận.
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù… những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.
Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hoá Đông Sơn).
Nước Xích Quỷ
Theo một số sách cổ sử chưa có căn cứ chắc chắn[6], các tộc người Việt cổ (Bách Việt) lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn phía nam sông Trường Giang của Trung Quốc hiện nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở miền bắc Việt Nam. Truyền thuyết cho biết nhà nước của các tộc người Việt được hình thành từ năm 2879 TCN tại vùng Hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay). Đến thời Xuân Thu-Chiến Quốc (thế kỷ 8 TCN đến thế kỷ 3 TCN) do các sức ép từ các vương quốc Sở, Tần ở miền bắc Trung Quốc và làn sóng người Hoa Hạ chạy tỵ nạn chiến tranh từ miền Bắc xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị mất lãnh thổ, bị đồng hóa vào người Hoa Hạ. Đỉnh điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng lãnh thổ của Trung Hoa kéo xuống tận ven biển phía nam Quảng Đông[7].
Vương quốc của các tộc người Việt cổ (Xích Quỷ) thời kỳ này có thể nói đây là một liên bang lỏng lẻo giữa các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền Việt ở Vân Nam, Dạ Lang ở Quý Châu, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Triết Giang, Sơn Việt ở Giang Tây, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt ở miền bắc Việt Nam [8]…
Những biến động trong thời kỳ này cũng dẫn tới sự tan rã của nhà nước liên minh của các tộc người Việt, từ thế kỷ 8 trước công nguyên trở đi từ các bộ tộc Việt cư trú tại các khu vực khác nhau ở miền nam sông Dương Tử đã hình thành nên các nhà nước khác nhau ở từng khu vực cũng như thời kỳ như: nước Việt, Văn Lang, Việt Thường, Nam Việt, Âu Lạc, Quỳ Việt, Mân Việt, Đông Việt,…các nhà nước độc lập này từng bước bị các vương triều của người Hoa Hạ ở miền Bắc sông Dương Tử đánh bại thôn tính, hoặc là tự nội chiến với nhau dẫn tới suy yếu. Đến thời kỳ đế chế Hán khoảng thế kỷ 1 TCN các nhà nước Việt hoàn toàn bị diệt vong[9].
[sửa] Nước Văn Lang
Lãnh thổ nước Văn Lang năm 500 TCN
Theo tục truyền, các đời vua Hùng trị vì nước Văn Lang của người Lạc Việt được thành lập vào khoảng thế kỷ 7 TCN tại khu vực miền bắc Việt Nam ngày nay, đóng đô tại Phong Châu (Phú Thọ). Người Lạc Việt được xem như là tổ tiên của người Việt Nam hiện đại.
Các tài liệu nghiên cứu hiện đại[10] phần lớn đều đồng ý theo Việt sử lược về một vương quốc Văn Lang của người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ 7 TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN – 682 TCN) ở Trung Quốc. Vương quốc này tồn tại ở vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã, sông Lam và đã có giao lưu với nước Việt (Yue) của Việt vương Câu Tiễn (Lạc Câu Tiễn) ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang – Trung Quốc ngày nay.
[sửa]
Nước Âu Lạc
Đến thế kỷ thứ 3 TCN, Thục Phán từ nước Thục (phía đông bắc Văn Lang) của người Âu Việt đã đánh bại vua Hùng Vương thứ 18 và lập nên nước Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương.
Theo các nguồn sử liệu khác nhau, nước Âu Lạc của An Dương Vương bị vua Nam Việt là Triệu Đà ở liền kề phía bắc thôn tính năm 208 TCN (hoặc 179 TCN).
To Dong@…
Cái còm Dong@… trao đổi với chị Kim Dung sang hôm qua hay như một bài ùy bút ! (xin lỗi ré còm muộn vì cả ngày hôm qua không vô mạng)
Có lẽ chị KD@… do bận rộn mà chỉ đọc lướt qua entry đó thôi.
Với cái còm của Dong@…, mình có cảm giác như Dong@… đang đi guốc (mộc) trong bụng mình vậy ! Nó không phải là một clip video mà là một cuốn phim mà nhà quay phim kiêm đạo diễn là Dong@… Những hình ảnh Dong@ hình dung về mình nó rất hiện thực !
…
Trao đổi thêm với Dong@… là:
Qua entry này mình muốn nói rằng, thời đại khoa học của thế kỷ 21, không thể dùng “phương pháp luận” thuở hồng hoang để khẳng định ai là Quốc Tổ như các vị quản lý quần thể di tích văn hóa lịch sử Đền Hùng. Lại thêm chuyện thờ cúng và coi Vua Hùng là quốc tổ có cả ngàn năm nay. Qua các thời kỳ có lúc là tự nhân dân thờ cúng; có lúc là nhà nước các thời thể chế hóa. Điều dó nói rằng, Vua Hùng là quốc Tổ bao đời nay !
Cái thuở xa xưa, khi con người còn sống hoang dã, lý giải nguồn gốc loài người, hiện tượng tự nhiên bằng các truyền thuyết, thần thoại… những truyền thuyết đó đến thời đại @… người ta chỉ nên coi đó là giá trị văn hóa về mặt tâm linh. Nó không thể là chứng cứ lịch sử để mà khẳng định võ đoán đó là nhân vật lịch sử !
Ở thời đại @… các nhà khoa học có thể xác định cái xác ướp, các di tích hóa thạch có từ hàng ngàn, hàng triệu năm trước công nguyên bằng các kỷ thuật phân tích hiện đại. Mà khi đưa ra kết luận người ta cũng chỉ coi là giả thuyết (của trường phái, phương pháp… khác nhau) chứ không chỉ xây mới ngôi đề bằng ciment gạch men dúc cái tượng đồng rồi bảo đó là Quốc Tổ thì nó nực cười quá !
…
Điều ngạc nhiên của mình là chuyện xây đền cho LLQ & AC có từ hai, ba năm nay sao không có nhà sử học, nhà khoa học nào lên tiếng trước một dự án kéo dài mấy năm liền như vậy ?
Phải chăng, bất cứ cái gì đã được nhà nước phê duyệt (như dự án mở rộng quần thể khu di tích Đền Hùng, trong đó có các hạng mục xây Đền thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ,..) là coi như xong ! Đã có kết luận ! Đã đồng thuận ! Không cần phản biện lật ngược vấn đề ! Đó sự thật đáng sợ và đáng lo cho các nhà khoa học ! Họ ngủ quên rồi à ? Hay học cũng bị ru ngủ bỡi các truyền thuyết xa xưa ?
Lịch sử chỉ có một. Còn lý giải lịch sử; giả thuyết lịch sử; tác phẩm nghiên cứu lịch sử thì có rất nhiều,… thế mới cần đến các nhà khoa học sử chứ !
Về một khía cạnh nào đó, những cán bộ quản lý văn hóa, những người biến nhân vật truyền thuyết thành nhân vật lịch sử và tôn họ lên hàng Quốc Tổ,… thì cũng là sản phẩm của giáo dục mấy thế hệ vừa qua !
Buồn thay !
Không hiểu sao tôi vẫn cứ lấn cấn mãi chuyện ông Lê Tiến Thọ đứng ra đọc bài tế Tổ.
Cụ Vũ Khiêu chấp bút là đúng, nhưng việc đọc phải là một vị chức sắc xứng tầm, hàng nguyên thủ quốc gia thì càng tốt.
Vua chúa ngày xưa tế Trời phải tự mình trai giới, phải tự đọc, phải tự bái lạy theo ngh thức cho dù trong đám quần thần thiếu gì kẻ đẹp mã, giọng vang.
Anh Lê Tiến Thọ là một nghệ sỹ Tuồng gạo cội, anh có thể vào nhiều vai từ vua hiền đến bạo chúa thậm chí cả Ngọc Hoàng, anh có thể đã từng còn vào ngọt vai hề mồi hề gậy. Anh cống hiến cho nghệ thuật Tuồng và văn hóa dân gian thế nào thì mới được nhà nước phong tặng các danh hiệu cao quý.
Nhưng, cũng chính vì lẽ anh nguyên là một nghệ sỹ Tuồng nên anh không được đứng ra đọc văn tế trong những dịp như thế này.
Tôi viết còm này biết sẽ làm anh và giới nghệ sỹ buồn và giận, nhưng buôc lòng tôi phải có ý kiến vì có những vai trò trong cuộc đời này đòi hỏi người ta phải làm thật, không được diễn.
Thôi! “Hề” mà.
To Dong@…
Trước đây, tổ chức Giỗ tổ lớn cứ 2 năm 1 lần thì mới có đại diện nhà nước tham gia. Còn không nhất thiết phải là người đứng đầu quốc gia. Nhưng bây giờ nhiều vị “quốc gia. tỉnh gia, ngành gia,…” cũng qua tâm đến việc chủ tế lắm ! Họ mong thần thánh, quốc tổ sẽ phù hộ độ trì cho mình !
Dong@ có thể tham khảo đoạn trích sau đây trong bài viết LỄ HỘI ĐỀN HÙNG QUA CÁC THỜI KỲ” do nhà nghiên cứu Đền Hùng và Lễ hội Đền Hùng Vũ Kim Biên viết cho báo TT & VH.
1) Trước thời Nguyễn: Giao thẳng cho dân sở tại!
Bản ngọc phả Đền Hùng viết sớm nhất vào năm Thiên phúc nguyên niên (980) đời vua Lê Đại Hành, cho thấy cách nay hơn nghìn năm, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã quan tâm tới nơi cội nguồn dân tộc.
Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: “…Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi…”
Như vậy có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm giỗ Tổ ngày 11 tháng 3 âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu miễn đi phu đi lính.
Làng Hy Cương làm giỗ Tổ theo cách cầu tiệc như phong tục chung. Ngày 11 tháng 3 họ rước long báu trên Đền Thượng xuống đình làng để tế. Tế xong lại rước trả. Còn dân chúng xa gần nhớ ngày giỗ Tổ thì về Đền lễ bái, tụ hội đông đúc, tự đem đến các trò chơi, hàng hoá mua bán chủ yếu là đồ ăn uống, cũng có thể gọi là lễ hội, tương truyền khá đông vui.
Sắc chỉ của vua Quang Trung năm 1789 vẫn nói duy trì lệ cũ.
2) Lễ hội với Hát Xoan và tục ngủ lại
Đến nhà Nguyễn, việc quản lý Đền Hùng có sự thay đổi lớn. Triều đình trực tiếp đứng ra tôn tạo các đền đài lăng tẩm chùa chiền. Nhà vua giao Tuần phủ Phú Thọ tổ chức tế ngày giỗ Tổ với sự chỉ đạo của Bộ Lễ, làm trước dân 1 ngày, tức là tế vào ngày mồng 10 tháng 3, để hôm sau dân sở tại tế lễ theo ngày giỗ cũ. Chủ tế là Tuần phủ Phú Thọ. Bồi tế, thông đạo tán, chấp sự là quan lại tỉnh Phú Thọ và huyện Lâm Thao. Định lệ 5 năm làm một hội lớn hay hội chính, lấy năm chẵn 5 như 1920, 1925…
Năm hội chính, ngay từ tháng giêng trên núi Nỏn đã treo lá cờ thần báo cho đồng bào xa gần biết. Theo thông sức của quan Tuần phủ, có khoảng 40 làng rước kiệu từ đình làng mình tới chầu, tất cả đặt ở chân núi để chấm giải. Giải là một bức trướng vua ban chứ không có gì khác. Riêng kiệu làng Cổ Tích là dân Trưởng tạo lệ được rước lên núi, nhưng cũng chỉ đến bãi bằng Đền Hạ là dừng lại.
Rước kiệu là một hoạt động tín ngưỡng rất tôn nghiêm và náo nhiệt. Một đám rước như vậy gồm 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Kiệu được sơn son thếp vàng đục chạm rất tinh vi. Thân kiệu là 2 con rồng dài gần 4m do 16 người khiêng. Cỗ đi đầu bầy hương hoa đèn nến, giầu cau, bình nước và nậm rượu. Cỗ thứ hai bầy nhang án bài vị thánh có lọng che. Cỗ thứ ba bầy bánh dầy bánh chưng hoặc xôi cùng thủ lợn luộc hoặc cả con. Ông chủ tế mặc áo hoàng bào đi sau kiệu thánh, các quan viên chức sắc đi theo hộ giá. Riêng kiệu nhang án có phường bát âm tấu nhạc hầu thánh đi hai bên. Trừ phường bát âm mặc lễ phục cổ điển (quần trắng áo the khăn xếp) còn các quan viên rước kiệu đều ăn mặc phỏng theo lối quan văn võ và binh sĩ trong triều. Những làng ở xa phải rước hai ba ngày mới tới Đền, bởi vậy phải có ê kíp thứ ba là đội quân hậu cần. Hàng ngày họ phải đem cơm nắm thức ăn nước uống từ nhà đến cho đám rước, đi đi về về rậm rịch.
Cũng nằm trong lễ thức tại Đền Hùng còn có tiết mục Hát Xoan. Hát Xoan xưa gọi là Hát Xuân, chỉ biểu diễn trong mùa xuân. Vì kiêng tên bà Lê Thị Lan Xuân vợ vua Lý Thần Tông, người làng Hương Nộn có công lớn giúp đỡ phường Xuân hoạt động nên gọi chệch đi là Hát Xoan. Đêm Hát Xoan kéo dài từ chập tối đến sáng tại Đền Thượng.
Tối đến ít người về nhà dù ở gần, tục lệ là ngủ lại. Bởi vậy họ đi xem đi chơi cho mệt rã rời rồi tiện đâu ngủ đấy. Giữa bầu không khí cởi mở ấy là hàng loạt trò chơi văn nghệ biểu diễn ngày cũng như đêm tự do thưởng thức không mất tiền. Ban khánh tiết chỉ cần treo lên ít giải làm vui, là các làng xã tự đem đến trò gà chọi, kéo co, bịt mắt bắt dê, bắn nỏ thi, đấu vật, cờ người…Ban đêm bao giờ cũng có hát chèo tuồng ở các bãi rộng. Phường chèo tuồng đón ở các rạp về hay tự họ xin đến. Cũng có cả các đoàn nghiệp dư ở các làng đến Hội trổ tài. Tất cả các đoàn đó được Ban khánh tiết cho ăn cơm cá thịt và ít tiền lộ phí, biểu diễn cho dân xem không bán vé. Nói chung đi tới Hội là gặp không khí cởi mở thân thương tha thiết nghĩa tình.
3) Nhiều cải tiến so với xưa
– Giỗ Tổ năm 1946, cụ Huỳnh Thúc Kháng – Phó chủ tịch nước lên làm lễ, dâng tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm, cáo với Tổ hoạ xâm lăng và quyết tâm kháng chiến của dân tộc.
– Từ năm 1947 đến 1954 không làm được giỗ, nhưng nhân dân địa phương vẫn cúng bái đơn lẻ,
– Năm 1956 làm lễ hội lớn, do Bộ Văn hoá tổ chức, có rước kiệu. Sau đó thôi không rước nữa.
– Từ năm 1957 về sau, nhất là những năm đánh Mỹ, Lễ hội vẫn đông, nhưng rất đơn giản. Nghi thức là đoàn đại biểu quân, dân, chính của tỉnh và huyện xã sở tại dâng một bó hoa lên Đền Thượng, đi đầu là đoàn thiếu nhi xã Hy Cương đánh trống cà rình.
– Từ năm 1990 đến nay, lễ hội có cải tiến nhiều so với trước. Về lễ có các vị ở Trung ương về dâng hương hoa hoặc làm đồng chủ lễ với Chủ tịch tỉnh Vĩnh Phú (sau là Phú Thọ)…
Bài bản tế được cải tiến rất nhiều so với tế đình làng, chỉ giữ nguyên trang phục truyền thống. Chủ tế đứng yên tại chỗ nhận các lễ phẩm do chấp sự đưa đến để làm lễ, rồi trả lại chấp sự để dâng tiến, chứ không đi lại rồng rắn như cũ. Dàn nhạc cũng ngồi tại chỗ, cử lên hay ngừng im theo hiệu của Đông, Tây xướng. Chỉ dâng hương, hoa, rượu và chúc văn, còn các lễ phẩm khác đều bầy sẵn trong thượng cung. Hai hàng chấp sự khi đặt lễ phẩm lên ban thờ rồi, thì đi giật lùi bước một về chỗ cũ, chứ không quay lưng vào thánh.
…
(Vũ Kim Biên)
@Dong ơi! Ông Thọ hát tuồng thì đóng tuồng là hạp quá còn chi mà lăn tăn nữa hè. Có rứa mà cũng …théc méc.
Vẫn biết thời nay, cái thời kinh tế thị trường (sơ khai) theo định hướng ( cũ ) thì chuyện lộn sòng nào cũng có thể xảy ra, nhưng có những chuyện không khác được nếu muốn “yên thân” thôi. Ví dụ nhé :
Ngày giỗ bố, con làm to, quyền cao chức trọng trách nhiệm với Dân với Nước nặng nề nên không về thắp hương được, chỉ bái vọng từ xa hoặc có đôi lời với vong linh cha, việc ấy họ hàng bà con anh em có thể thể tất, không “truy cứu”.
Nhưng, nếu ông con ấy cử người phó, hay thư ký….về quê, mang theo cả một xe tải đồ cúng lễ, lại ủy quyền cho anh phó ấy tay thắp nhang, miệng khấn vái mà mắt thì nhoẹt nhòe lệ chảy… thì KHÔNG THỂ ĐƯỢC !
Ấy là mới nói chuyện giỗ cha mình thôi nhé, giỗ Tổ, Quốc Tổ thì không ai có thể “đóng thế” , làm cascadeur được. Bởi làm như thế là xúc phạm tổ tiên ! Tội nặng tru di mà bia miệng để đời !
Hoan hô Dong. viva dong, viva vn
Thời phong kiến có câu đại loại như ri “xướng ca vô loài”
nay người ta “thông minh” dùng “xướng ca vô loài” là để CHƯỞI lại TỔ TÔNG mà Dong
Vua Hùng lắc đầu lẩm bẩm: ” Sao bây giờ đứa nào vào lễ cũng khua chân múa tay, mồm như tép nhẩy ăn mặc linh tinh. Chỉ có mấy người đóng khố đi ngoài đền trông còn được.” Rồi Ngài hỏi chủ lễ:
– Nàng Âu cơ của ta đâu?
-Dạ thưa. Thần dân đã rước về lễ hôm mùng 7 tháng giêng rồi ạ.
-Đã cùng trong một nhà lại còn “của bà của cháu”.Lại đây, Cho ta mượn cái điện thoại!
Và giọng buồn buồn Ngài gọi điện sang bên Trang Hiền Lương, quận Hạ Hòa, trấn Sơn Tây.
he he… người ta giỗ QUỐC tổ mà y như giỗ bố mẹ ông bà của từng gia đình. Ngày của Ông giỗ cho ông. Ngày của Bà thì giỗ cho Bà. Thế nên rồi đây chúng ta được nghĩ lễ nhiều nữa ! Sướng nha ! Ha ha…
chủ nhật vào còmQUE CHOA
mới thấy cái đẹp bao la tình người
còm xong rồi lại ngồi cười
rồi đây đất bọ hơn mười ngày qua
Kính chào quý Bọ, quý bác quý văn nhân và giai nhân,… (nói gọn lại là Quý Vị) trên chiếu Quê Choa !
Cho đến giờ này, sau khi đọc hết các comments trong entry này, Sao Hồng có mấy nhời xin gửi đến quý vị :
Trước hết, Sao Hồng xin gửi lời cảm ơn đến quý vị đã quan tâm và góp vui với bài viết của tiện dân Sao Hồng. Cảm ơn Bọ Lập đã chiếu cố post nhàn đàm của Sao Hồng vào dịp Giỗ tổ Hùng Vương.
Entry này đúng là một nhàn đàm. Một nhàn đàm vì chuyện tán hươu tán vượn về một sự kiện, một cách làm hay một cách “ứng xử” đối với một nhân vật.
Nhân vật chính trong entry này không chỉ là Lạc Long Quân, một nhân vật từ truyền thuyết đã bước ra hiện thực, nếu nhìn vào các “dự án” dựng đền, đúc tượng, dâng hương (mới diễn ra ở đât tổ Phú Thọ) bằng ngân sách nhà nước.
Từ sự kiện đó em mượn “lăng kính” báo chí nhà nước để nhàn đàm. Chính các báo lăng xê sự kiện đó thông qua hai từ Quốc Tổ.
Một nhàn đàm, nói chữ bây giờ là xuất phát từ chuyện “vi mô” mà đụng chạm đến chuyện “vĩ mô”. “Vi mô” là chuyện “giáo dục” của hai bố con em về một sự kiện lịch sử. “Vĩ mô” là sự kiện đó và những “khúc mắc” vừa mang tính lịch sử vừa liên quan đến văn hoá tâm linh ở tầm quốc gia.
Nói thực với các bác, là con người, ai cũng muốn hiểu rõ cội nguồn của mình. Vì thế, em cũng muốn dạy con em “dân ta phải biết sử ta” . Nhưng với vốn kiến thức học hành chắp vá của em chưa đủ để đáp ứng những câu hỏi tưởng chừng là “trẻ con”. Những câu hỏi mà mình đã từng tự hỏi xưa kia. Bể học mênh mông quá…
Em xin khẳng định là entry này không hề viết để “đùa cợt về lịch sử tổ tiên” như có bác hiểu lầm. Nó chỉ là một cách thể hiện nêu ra một vấn đề từ truyền thuyết đến hiện thực; từ quá khứ đến hiện tại và cách LÝ GIẢI vấn đề của các đối tượng khác nhau trong xã hội hiện nay.
Nó là câu hỏi của chính thằng con nít là em khi còn hỉ mũi chưa sạch. Bây giờ câu hỏi đó được lặp lại bởi đứa con mình khi còn lứa tuổi tiểu học. Mình bổng nhận ra, một thế hệ của mình qua đi mà câu hỏi vẫn còn đó. Thậm chí, cả mấy thế hệ trước đó nữa.
Có thể, cách tiếp cận phương pháp; hoặc kiểu tư duy cũ mà mình được học, được giảng dạy lâu nay không thể lý giải ?
Đến thời điểm này năm ngoái, khi thấy báo chí đưa tin. Phú Thọ đã khánh thành đền thờ Lạc Long Quân và sẽ đúc tượng của ngài (có thật không nhỉ?) thì trong cái đầu tăm tối của em bật ra bao nhiêu là câu hỏi.
Tại sao hơn ngàn năm nay, dân ta truyền tụng nhau truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ để lý giải nguồn gốc con cháu Lạc Hồng mà không dựng đền đúc tượng Lạc Long Quân ? Tại sao qua nhà nước các thời Lê, Lý Trần, Nguyễn,… ghi nhận chứng tích đền đài Vua Hùng thuở lập nước và giúp dân hay trực tiếp tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương mà không dựng đền giỗ Tổ Lạc Long Quân ?
Mỗi cá nhân gia đình hay dòng họ có thể có nhiều ông Tổ qua các thời kỳ khác nhau. Nhưng tầm quốc gia dân tộc thì không thể lấy huyền thoại làm Quốc Tổ !
Theo nhà nghiên cứu Vua Hùng học Vũ Kim Biên, “lễ Giỗ Tổ Hùng Vương được ghi nhận có từ hơn 1000 năm trước, từ thời Vua Lê Đại Hành. Người ta đã thống kê có hơn 2000 điểm thờ Vua Hùng và các tướng lĩnh thời Hùng Vương trên khắp đất nước ta”. Mà không nói đến thờ Lạc Long Quân và gọi nhân vật truyền thuyết đó là Quốc Tổ!
“Truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, là huyền thoại, không phải là sự thật nhưng vẫn lý giải cho sự thật. Bọc trăm trứng là truyền thuyết gắn với núi Nghĩa Lĩnh. Lạc Long Quân gặp Âu Cơ ở bờ sông Đà, gặp nhau đẻ ra bọc trăm trứng, nở trăm con là lý giải cho tộc người Bách Việt. Thời đó, có hàng trăm bộ lạc người Việt. Truyền thuyết này để người ta nhớ đến nguồn gốc xa xưa của dân tộc Việt Nam”. Chứ không thể lấy các nhân vật đó làm quốc Tổ !
Những băn khoăn đó âm ĩ lâu nay trong suy nghĩ của em. Nếu là người sống bằng nghề viết, thì sẽ có cách thể hiện khác. Vì là một fan của Quê Choa, chỉ với mục đích góp vui với chiếu rượu mà em viết theo kiểu… nói ở bàn nhậu thông thường.
Về từ ngữ, nói về chuyện ứng xử với tổ tiên nên em phải dùng giọng thuần… Bắc nhưng dân dã. Ví như luận: Vua Hùng là con Lạc Long Quân (theo truyền thuyết) nhưng hàng ngàn năm nay được dân ta thừa nhận là… Tổ. Bây giờ báo đài đưa tin Lạc Long Quân là Quốc Tổ thì ngôn ngữ dân gian gọi là “Tổ Bố” (tổ cha) đúng quá còn gì !
Xin thưa các bác, “Tổ bố” khác với “bố tổ” nhé ! Viết như thế cũng không nên coi đó là “giễu cợt tổ tiên”. Các bác chớ suy diễn theo lối tư duy “định hướng tư tưởng” ! Hu hu…
Chuyện các nhà quản lý gật đầu cho người ta quảng cáo rượu. Rồi họ thuê nhân công hì hục đấy 4226 lít rượu 39,5 độ cồn lên đầu độc bàn thờ quốc tổ và chốn linh thiêng thì các bác nghĩ sao? Đó mới là “giễu cợt tổ tiên” các bác ạ !
Chuyện các cháu của Công ty Mai Linh mang 10.000 bách chưng bánh dầy lên dâng hương Quốc Tổ. Sau đó phải “cắn răng” mà ném như “ném thóc cho vịt đàn ăn” mà gọi là “phát lộc” các bác nghĩ sao? Đó mới thực sự là “giễu cợt tổ tiên” các bác ạ !
… còn nhiều lắm, sự “giễu cợt tổ tiên” đang xảy ra hằng ngày với sự tiếp tay của các cấp quản lý ở các địa phương các bác ạ !
….
Đôi lời thưa với Chị KimDung@…
Chị đã có nhã ý đề đạt lên sếp Nguyễn Anh Tuấn, đưa vấn đề này ra thảo luận ở diễn đàn của Tuần Việt Nam Nét thì em lấy làm mừng lắm. Em tin là sẽ có nhiều nhà khoa học không tán thành kiểu “lộng ngôn” và “áp đặt” việc thờ cúng nhân vật truyền thuyết; “nhà nước hoá” chuyện thờ cúng “các quốc tổ” bằng “mệnh lệnh hành chính nhà nước” như hiện nay.
Nhưng em cũng xin thưa với chị, có đưa ra thảo luận cũng chỉ là… đơm đó ngọn tre (thuật ngữ thường dùng của Quê Choa) thôi ! Có một dự án “định hướng phát triển” quần thể Quốc Tổ đến năm 2015 đã được Thủ tướng Chính phu phê duyệt rồi chị ạ !
Khu di tích lịch sử Đền Hùng sẽ được mở rộng tới gần 1.000 ha. Đã xây mới đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ trên núi Vặn, đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân tại núi Sim. Sắp tới sẽ xây dựng Tháp Hùng Vương cao trăm “trượng” “theo di nguyện cố Tổng Bí thư Lê Duẫn năm xưa “Dựng tháp Vua Hùng để từ Đền Hùng nhìn ra cả nước và cả nước nhìn về Đền Hùng”.
….
Riêng em, em sẽ cố gắng “định hướng” cách viết về tổ tiên như chị khuyên, nếu chị có nhã ý “lách” cho những bài như thế này đăng ở TVN!
Còn không, em vẫn trung thành phương châm: nghĩ với lẽ phải và viết bằng tay phải; đăng báo lề trái nhưng thề bằng… tay trái.
***
Nói thực với các bác, gốc gác em ở mạn Nam Định – Hà Nam, nơi Mai An Tiêm huyền thoại khai khẩn mở mang bờ cõi bằng phương châm lấy ngắn nuôi dài với trái dưa hấu.
Nghe đâu, ông tổ cổ dòng họ em theo các cụ mở cõi thời vua Chiêm Thành dâng đất để đổi lấy công chúa Ngọc Hân.
Đến gần cuối thế kỷ 20, em lại bắt chước các cụ tổ xưa mà hành phương Nam theo sự mách bảo trái tim và được chấp nhận của… nhà nước.
Bây giờ dừng lại miền duyên hải Nam Trung Bộ, tá túc ở căn hộ cửa hướng về bốn phương hứng gió. Mỗi lần thắp hương cúng ngày rằm mùng một ta, em vẫn cắm một cây nhang hướng về phía Bắc và khấn bằng những câu thơ của cụ Huỳnh Văn Nghệ:
Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng[2]
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.
….
Một lần nữa xin đa tạ cảm ơn các “Cu Vê” (Quý Vị) đã chiếu cố quan tâm đến nhàn đàm của em !
Cảm ơn Bọ Lập dù nhận xét “bài này ghê quá” mà vẫn đăng, để cho em nhận được vô số thông tin và sự chỉ giáo của bạn bè…
Cảm ơn ! Xin cảm ơn !
Ua chầu chầu, cái lời cảm tạ của Bs SH đọc mỏi hết cả lưng!
Cảm ơn bác Mèo Hen đã đọc và chia sẻ !
Bác ngồi “trực” cả đêm rứa không hen không mỏi lưng mới lạ !
He he…
Công chúa Huyền Trân chứ không phải Công chúa Ngọc Hân bác Súng Hỏng ơi , hì hì …
He he… cảm ơn bác HồThơm@… đã đính chính ! HUYỀN TRÂN !
Chẳng biết sao mỗi lần em cứ nói đến CÔNG CHÚA là cứ nẫn nộn nung tung…. dù rằng ây giời kiến thức như thế kiểm chứng lai rất dễ !
Thanks a lot bác !
He he..
hehe tui đồ rằng bao nhiêu năm nay bỏ bê không nhang khói, tổ tiên lạnh lẽo, bá tánh phải tự vùng nào vùng ấy chăm sóc cúng tế. Gần đây, trong ngoài nước dân chúng bỗng nhiên trỗi dậy tinh thần dân tộc, quay lại với tổ tiên rầm rộ (nhất là từ sau khi thằng bạn tồi nó lấy đảo Việt Nam lập “huyện Tam sa”), các bố hoảng, giật mình, mới quắn tíđ lên thờ thờ cúng cúng tùm lum. Vì một thời gian dài không thờ cúng theo phong tục nên quên mẹ nó phong tục lễ nghi đi. Chừ đùng cái phải làm cái việc thơ cúng nên trông chả giống ai. Chụp chụp giựt giựt làm quơ làm quào. Nay mai không chừng mấy cái miễu hoang cúng ma cũng làm cho “đại” bự tổ chảng, hoành tráng cho coi.
Chuyện thờ nhiều vị làm quốc tổ một lúc một phần là phản ánh cái ngớ ngẩn vong lễ nghi bên trên, một phần cùng nói cái tình trạng tâm thần của các bố bi chừ trong quan hệ chính trị – kinh tế – quân sự với thế giới đó thôi. Khoái Mỹ mà hổng có chơi lút cán với Mỹ; nói bạn thân luôn mồm với thằng bạn tồi nhưng lại thủ đòn sợ thằng í nó táp phát mất giống, vv…
Nhưng mà rốt cuộc thì tổ vẫn là tổ, hồi nào tới giờ thờ sao thì giờ thờ vậy đi, lộn xộn chi cho mệt. Bi chừ VN đang bị ép, bị chơi đủ kiểu, lo đối phó trước đã. Đất nước còn, đất nước giàu có thì các Cu Vê muốn thờ ai, muốn tìm hiểu sâu sa ra sao, hạ hồi làm được hết.
Xin gởi đến các Cu Vê và bác Sao Hồng một câu rất thâm và thực dụng của một ông tông tông Mỹ, mà em xớn xa xớn xác đọc được hôm tê khi surf net:
“I don’t know who my grandfather was; I am much more concerned to know what his grandson will be.” Abraham Lincoln.
Bác nào gieo giùm em một quẻ “dịch” ra tiếng Việt, đa tạ.
qx
“I don’t know who my grandfather was; I am much more concerned to know what his grandson will be.”
(Abraham Lincoln)
***
Bác biết trích dẫn trong ngữ cảnh mình đưa ra thì bác quá rõ rồi còn gì mà phải dịch ra tiếng Việt nữa he !
Ông A. Lincoln không phải là “khai quốc” nuwosc Mỹ ngày nay nhưng Ông ấy rất xứng đáng để người đời ngưỡng mộ và nhớ mãi. Hậu thế goi ông là “Người giải phóng vĩ đại”.
Bây giờ nước Mỹ họ đâu có quan tâm ông Tổ của họ là ai. Họ là hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Nhưng hãy xem họ nói và làm. Hãy xem họ thể hiện tinh thần dân tộc có thua kém gì bất cứ quốc gia nào trên thế giới !
Thế còn câu này, bác Qx ơi?
“There are fathers who do not love their children; there is no grandfather who does not adore his grandson”
(Victor Hugo)
Hehe, cho vui thôi, giống như bác đùa ý mà!
Nhân dịp Giỗ Tổ, mấy hôm nay trên QC cũng có ý kiến băn khoăn về khoản vái/lạy. MH tui vừa sưu tầm được một bài viết ngắn của bạn bè, giới thiệu lên đây và mong bà con cho thêm ý kiến, đặng hoàn thiện kỹ năng vái lạy mỗi khi cúng bái.
VÁI/LẠY BAO NHIÊU CÁI LÀ ĐÚNG LỄ.
Lâu nay ta vẫn thường chứng kiến và nhiều khi tham gia vào mấy cái lễ lạt mà phải thắp nhang vái / lạy. Ai cũng làm vậy, cầm cây nhang vái / lạy “lụp bụp” … nhưng mấy ai biết cần phải “làm” mấy cái mới đúng?
Theo một số sách nói về nghi lễ đời người thì số lần vái / lạy đều có ý nghĩa riêng của nó. Trước hết nói về đám ma. Khi người tới viếng vái / lạy thì có nghĩa là :
Cái thứ nhất : là câu chào như : kính chào chú / bác / bạn … là người đang nằm trong hòm. Hay nói theo kiểu Mỹ thì là say hello.
Cái thứ 2 : là câu thăm hỏi tương tự như How are you!, nhưng tất nhiên người đã chết thì không thể khỏe được rồi, do vậy ở đây phải hiểu là cầu chúc … ra đi bình yên hay gì đó tương tự.
Cái thứ 3 : lúc này mới bắt đầu cần phải cẩn thận. Nếu ta viếng xong rồi sau đó còn quay lại (để dự lể truy điệu và / hoặc đi đưa chẳng hạn) thì cái này có nghĩa là tôi là cái gì đó (bạn bè hay con cháu …) của người đã mất đến đây viếng và hẹn sẽ còn quay lại (see you again!). Và như vậy thì chỉ vái / lạy 3 cái là xong. Nhưng nếu không thể quay lại mà sẽ đi về luôn thì cái thứ 3 này có nghĩa là đang nói lên điều tâm sự với người đã khuất (một lời thương tiếc, một kỷ niệm xưa, một câu cầu xin phù hộ …). Và trong trường hợp này thì phải có cái thứ 4.
Cái thứ 4 : lúc này chỉ thuần túy có ý nghĩa là lời giã biệt (không quay lại đám ma nữa). Trong các đám ma đời xưa, gia chủ đều cử người ngồi đếm mấy cái vái / lạy này để biết được số người sẽ tham gia đưa tiễn tới huyệt mà chuẩn bị cho được chu đáo.
Cũng chính vì số vái / lạy có ý nghĩa như vậy, nên thân nhân người đã khuất đứng đối diện để nhận và vái / lạy trả bao giờ cũng ít hơn người đi viếng 1 cái là do cái thứ 2 thì không cần trả lời có lẽ vì là điều này “nằm ngoài tầm tay” của cả 3 người (người viếng, người chết và thân nhân)?
Và cũng chính với ý nghĩa đó, nên sau cái thứ 3 (trong trường hợp 4 cái) thì người ta thường ngừng lại 1 chút bởi nội dung truyền tải hơi dài cần phải có thời gian để nói và “nghe” hết.
Cũng vì vậy khi quay trở lại để đưa đi thì chỉ làm 3 cái (số 1, số 3 và số 4) thôi.
Đối với các lễ ở chùa, nhà thờ tổ, mồ mả … (những người đã mất lâu rồi hay không tồn tại hoặc chỉ tồn tại trong cái chỗ mà mình cần / muốn lễ) thì có phức tạp hơn. Các cú vái / lạy lúc này thường là :
1 – say hello
2 – How are you
3 – I’m … gì đó, cầu xin gì đó ….
Rồi ngừng lại trong trạng thái thật tập trung để còn “nghe” lời phán của “người” vọng về. Nếu có nhiều cầu xin thì lặp lại cái thứ 3 …. Cho tới khi xin hết thì thôi.
4 – thank you
5 – good bye
6 – see you again
Và nếu sau này không again (để trả lễ như đã hứa) là bỏ mẹ! Còn nếu không có câu 6 thì không hiểu lời khấn có … hiệu nghiệm không?!
Tóm lại, ý nghĩa của mấy cái vái / lạy cũng rất “phức tạp”. Bởi vậy, ngày nay, hầu hết đều thường ngó xung quanh xem họ làm mấy cái thì mình làm theo cho chắc ăn! Và gia chủ cũng chẳng hơi đâu đếm mấy cái cho mệt.
Vài lời bậy bạ, xin thắp 2 nén nhang vái cái thứ 3 và thứ 6 mong những người đã khuất và Thần linh xá tội!
Ua chầu… bác Mèo Hen@ thức khuya để nghiên cứu vái, lạy mà chưa chịu say giấc nồng à 🙂
Trên trang cuộc sống Việt có thu thập về một số nguyên tắc lễ cũng khá thú vị để tham khảo đấy bác ạ.
http://www.cuocsongviet.com.vn/index.asp?act=detail&mabv=3510&/Nguyen-tac-cung-khan-vai-lay.csv
Kính chúc bác Mèo Hen@ ngon giấc nồng say mà không khò khè nhé.
🙂
Hen hen, chào bác Mèo, cảm ơn bác nha, hôm nọ đi viếng 1 cụ thuộc dạng TRÊN ở hội trường số 10 Nguyễn Cảnh Chân em thấy cũng nhiều TRÊN đến viếng mờ vái, lậy chả có thể thống chi cả, rõ là bùn cười, tiện đây em bẩu nếu có dịp bác mua quyển NHÀ NHO của tác giả CHU THIÊN thì chi tiết lắm nhưng mờ học theo được các cụ thì có mờ đứt…hơi, tắc tử
EX
“em còn nhớ hay em đã quên…hẹn”…
Thưa Cụ MH!
hen hen hen…(đạo của EX)!….
Người ta thường nói ” Lạy cụ mớ bái”, một “mớ” thì biết là bao nhiêu mà tính hè….
TN
Bác MH toàn vái mấy em chân dài,
nên chỉ sử dụng câu 3 và câu 6 ah.
thiện tai…! thiện tai…!!
Cái nhà bác Lồ* Ô này chỉ có cái tên thôi mà cũng viết sai chính tả, thiếu mất một chữ.
Ta ra ta, tàu ra tàu. Bác chơi nửa ta, nửa tàu làm sao mà dịch nổi cái tên của bác nhể? 🙂
Chỉ có chuyện vái/lạy không mà cũng nhiêu khê thật nhể! hôm trước lão bạn hàng xóm của VV được thằng cu Mai Vũ bên nhà thủ thỉ với lão rằng chú MH của cháu lang thang trên net, sưu tầm cách vái lạy bảo rằng: Cú lạy thứ 3 trong 6 còn gọi là “cú lạy vượt thời gian”, nghĩa là khi vái thì đầu phải cúi thật thấp để thể hiện lòng thành kính, mắt phải nhắm lại để thể hiện sự khẩn cầu, giống như là khi người con gái muốn được người con trai hôn, và thời lượng cúi lạy cũng phải kéo đủ dài để ông bà có đủ thời gian chứng giám.
Lão ta tin sái cổ. Bửa cúng cô hồn vừa rồi, lão áp dụng “cú lạy vượt thời gian” kia…nhưng khi lạy xong, ngẩng đầu lên thì con gà, và nải chuối cúng cũng đi theo ông bà luôn, linh thiêng thật! 🙂
Thưa các Cụ Quy Vê (vừa đạo của SH trên kia)!
Vì có đặt chút lễ mọn này mà sáng nay bà xã đánh thức dậy sớm (không phải Mèo Bự đâu nha, nói ngay kẻo nhiều bác còn “áp đặt” là chết iem!) để cảm tạ các Cụ.
Tôi hỏi “Khi vái tạ thì vái thế nào?”.
Bà Xã nói “Nếu vái từng Cụ thì bớt đi một vái như trong “Hướng dẫn sử dụng” đã nói”.
“Nếu đông quá?” -Tôi hỏi tiếp
“Thì cúi gập người như samurai rồi lễ phép thưa “Con lạy các Cụ mớ bái” -Bà xã chỉ bảo tận tình, -“Xong vái Bọ một vái”.
Vậy thì, Con lạy các cụ mớ bái ạ!
(Thừa mất chữ ạ, không biết các Cụ trên Chiếu có quở không đây!)
Vái Bọ một vái hỉ!
Khi mô bác Hèo Hen… “đi” đột ngột vì con hen thì em bái (lạy) 3. Còn nếu bác “đi” khi qua lễn đại thọ thì em bái… 7 hí !
He he…
Khi mô bác MèoHen@… vì hen mà… “đi” bất ngờ, em chỉ “lạy 3”. Nếu bác qua lễ đại thọ em xin lạy… 7 !
He he….
Dân kêu
Ô hô ! Ô hô ! Ô hô thiên !
Thời buổi Tổ tiên loạn bởi tiền
Lễ này hội nọ kia tha hồ kiếm
Dân hèn nước mạt họa nhãn tiền
Quan tham trả lời
Kiếm đã , xá chi họa nhãn tiền
Có tiền tao khắc có tổ tiên
Có tiền tao tếch đi Tây sướng
Họa đấy phần cho những đứa hèn
Hay tuyệt, thơ thẩn như nhà thơ thế mờ em cứ tưởng bác chỉ có bussines
Không phải dân biz, mình là dân kỹ thuật EX ạ. Văn thơ thì càng mù tịt, Thỉnh thoảng hâm hâm lên thì thơ thẩn, lý luận xả stress tí thôi.
@ tinkhinhte!
______
Họa chơi, họa chơi cuối tuần thôi nghe!!
…….
Ai tai ! Ai tai ! Ai tai địa
Thế thái Giang sơn nhục thế kia
Biển mất núi lở trầm non nước
Lễ này hội nọ vẫn lia chia
______
Tiền chùa xài cứ sướng như tiên
Rủng rẻng sợ chi họa nhãn tiền
Có tiền Tổ tiên rờ- tút lại
Tiền chùa ta cứ sướng liên miên
Bác Đồ Gàn múa bút
Ngàn cân bỗng nhẹ bâng
Khí huyết thêm thư thái
Kính bác một chung tràn !
Em/cháu cảm ơn đóng góp của Mèo Hen, BSD, em xinh, bọ Lập, thuan bai, nói ra để cho mọi người hiểu mình nghĩ gì thôi chứ cũng không muốn gây gổ hay chấp nhặt. Con cũng xin lỗi bọ Lập là làm loãng chủ đề post. Tuy nhiên, để tránh trường hợp tương tự xảy ra, mình mong Hiếu từ giờ trở đi không bao giờ có í kiến gì về mình nữa, dù tốt hay xấu, coi như không có mình trên Quê Choa. Thậm chí mình sẽ rất biết ơn Hiếu nếu Hiếu đừng bao giờ đọc còm của mình. . Đây chỉ là ý muốn cá nhân. Giả sử mình có làm gì sai lầm, trên chiếu rượu rất nhiều người bậc cha, bậc mẹ của Hiếu và họ biết phải làm gì.
Đây là tất cả những gì em muốn từ Hiếu. Nếu Hiếu cam kết như vậy, em xin hết và không bao giờ nói về chuyện này nữa. Cảm ơn mọi người.
Ai lại thế “Tavaris” Zhi ?
Cu Hiếu nó nhạy cảm với chuyện ai nói hơi tục nên “Ối” có một tiếng, Zhi lại đòi “ly khai” theo kiểu Ban “Căng” thế thì còn gì là nam nhi ?
Bỏ qua đi. Khơ ra sô ?
H…i..ế..u, đừng có ngồi tủm tỉm cười như thế…ế !
Zhi à, mình nói thật là mình thấy Zhi sai rồi. Hôm nó Zhi có 1 cái còm mình có đọc và thấy có đoạn phản cảm thật. Nhưng mình nghĩ đó chỉ là bức xúc quá với bà NB thôi, ai cũng muốn xỉ vả thế cả, nhưng không ai dám nói ra thôi. Tuy nhiên khi public cái bức xúc đó nên đây thì thật không phải với các bậc tiền bối ở đây.
Hiếu à, Hiếu cũng sai rồi. Hình như sau cái còm đại khái là Ôi giờ Zhi gì đó thì Hiếu có 1 cái còm khác nói về sạch bẩn gì đó thì thật là có ý không phải với Zhi.
Tóm lại, hai bạn không nên để bụng những chuyện nhỏ tích tụ lâu ngày thành chuyện lớn, chúng ta đều là thanh niên mà. Nghe đâu EX đã tổ chức cho 2 bạn một trận tẩn nhau giảng hòa dưới gầm hay trên cầu Ông Lãnh rồi mà. Chưa xong sao?
Tôi ơi, có thể tôi cũng đã sai rồi. Tôi sai thì tôi thành thực xin lỗi cả hai bạn nhé.
Tôi tự keng, tự phạt mình 3 ly trước vậy.
keng, ực.
keng, ực.
keng, ực.
Dear tinkinhte@,
Có lẽ cái còm mà một số bạn còm cho là có đọan phản cảm, phải chăng là đọan trích nguyên gốc từ tác phẩm văn học Papillon- Người tù khổ sai Tác giả: Henri Charrière Ngôn ngữ: Tiếng Việt Dịch giả: Dương Linh – Nguyễn Đức Mưu.
Có lẽ Zhivagovn@ đã cố gắng khéo léo để sử dụng ngôn từ nguyên gốc câu chữ trong một tác phẩm văn học, cũng là có ý mong mọi người khi đọc sẽ không bị phản cảm và hiểu được sự cẩn trọng của bạn ấy, nhưng tiếc quá một số bạn đọc vẫn thấy sock vể ngôn từ.
Cuối tuần vui vẻ, xí xóa nhé Zhivagovn@ và Hiếu@.
Kính chúc bọ Lập chủ chiếu rượu và tòan thể bà con chiếu rượu Quê Choa ngủ ngon và có ngày nghỉ thư giãn thỏai mái cuối tuần.
🙂
Không phải bác ạ, cái còm đó hơi bậy một chút, chắc sau Zhi nhờ bọ Lập xóa rồi.
Trên chiếu các bác, các chú đã ưu ái, vỗ về xoa dịu rồi mà vẫn chưa hài lòng sao?
Hay được chiều quá nó thế.
Thanh niên gì mà có tý đã nhẩy dựng lên. Thà rằng tranh luận căng thẳng, thậm chí cãi nhau vì bất đồng ý kiến về 1 chủ đề nào đó có phải sướng hơn không.
Túm lại là nếu chưa học cách nghe chỉ trích thì đừng nên chỉ trích.
Cực đơn giản!
Người ta nói : cái gì hiếm đều quí.
Nhưng trên đời có hai thứ rất dễ tìm kiếm, dễ lắm, cần là có ngay, “thò tay” ra là với được liền, ấy vậy nhưng nó lại cực kỳ trân quí, đặc biệt trân quí, vì nó là chìa khóa để mở cửa vào Lâu Đài Hạnh Phúc Chân Chính, nhưng người đời lại không coi trọng nó, vì có lẽ nó quá dễ kiếm tìm.
Hai thứ đó chính là tính NHẪN NẠI và lòng BAO DUNG ĐỘ LƯỢNG
Thao&LeeHm@, em cảm ơn 2 bác.
TN@, bác MH còm thế là bác í đùa đấy, bác í muốn nói rằng bác í chỉ đọc được chữ Trung quốc còn chữ Việt nam thì bác í chịu.
Zhi@, Hâm hâm à, dở người à, ấm đầu à, chiện đã qua và 2 nhười đã làm lành rồi mừ, vả lại H cũng đã còm lại, chỉ vì hiểu nhầm nhau mờ sao còn ấm ức hở, chả hợp với bậc quân tử TA tí nào, Nghe Bác MH;BSD và BL đi
em xinh có đọc hết còm và có hiểu Zhi đang nói chuyện gì không thế? có phân ra hai mục 1, 2 đàng hoàng mừ
Nhất trí với Em Xinh!
Phát đít cu Zhi thêm một lần nữa, đúng như phương châm: “Một cái phát vào mông hàng ngày sẽ khiến cho con bạn đằm tính hơn”. 😉
Cu Zhi đeo kính vào để đọc một trong những nguyên tắc của chiếu rượu, bọ Lập ghi ở trên kia, đó là Nguyên tắc: Đối với gái là phải kính trọng lễ phép.
Chị em nguyên bản là vốn quý, cấm tiệt bợm nhậu trong chiếu được, đôi co, hoặcc lăng mạ, sỉ nhục mà chỉ được phép yêu chiều, đúng độ thì còn phải nâng như nâng trứng thối, hứng như hứng hoa khô. Chỉ có gái mới được bỉ gái. Cái “lịch lãm”, “trí tuệ” của chiếu rượu QC là vậy, đàn ông trước mặt gái là chỉ có một điều ca ngợi, đắm say, đối với gái là phải làm chúng phục lăn như bi. Còn so đo trí tuệ với gái thì tầm thường quá, hào hoa thế đ e’o nào được. Nếu gái có chửi thì ráng mà lắng nghe, nhưng đừng đôi co với gái làm giảm cái hào hoa, phong nhã của đàn ông chiếu rượu QC. Câu chuyện trí tuệ siêu việt là câu chuyện nội bộ của đàn ông, đàn ông thỉnh thoảng là phải luận bàn những chuyện mà gái không thể nào đủ tầm hiểu, có thế gái nó mới thấy choáng, mới phục…
Đôi co với gái, gái nó cũng nhổ toẹt vào, nó khinh vì tầm thường quá. Bởi chuyện đôi co, chửi bẩn đấy gái nó còn là sư phụ của đàn ông, nhá.
Đàn ông thằng nào vào mạng chả đều coi đong gái là một lẽ sống, mà thằng nào coi gái không phải là một trong những lẽ sống chủ yếu thì cũng nên đâm đầu vào tàu hỏa chết con bà nó đi chứ sống làm gì cho nó chật đất chiếu rượu..he..he. Tàn tệ với gái thì quá bằng đuổi chúng nó đi, mà đuổi chúng nó đi rồi thì các đại ca bợm nhậu vào chiếu rượu QC viết bài cho ai xem, ba hoa chích choè cho ai nghe đây????
Nhớ học cụ đây nhé: Đối với gái là phải kính trọng lễ phép. 🙂 😉
Túm lại, nhập Quê Choa thì theo Tục Mệ, tục mẫu hệ, lady nhứt; nếu ladies mà nhì, thì không ai nhứt cả, rõ chửa?
hehe …
sắp đến ngày 30 tháng 4 rồi. Ngày lễ này được gọi là ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, nhưng hàng năm, đôi với không ít người dân miền nam (không kể đến những người Việt hải ngoại phải bỏ nước ra đi) đây là một ngày kỷ niệm buồn. Đã có đây đó một số ý kiến, ngày 30/4 sẽ trở thành một ngày Hòa giải và yêu thương.
Nhập đề xong rồi, bây giờ vào ý chính. Thông điệp trên là để gửi cho Zhi đó. Hòa giải, yêu thương, rộng lưọng, thông cảm… kể cả với kẻ thù, huống chi là bạn mình. vậy nhé.
@ Vớ vẩn : nói đùa vui để cho Zhi bớt bức xúc. Nhưng mà bạn xem nhẹ phụ nữ đấy, ngày xưa trên blog Osin, không còm nào tranh luận với nhau mà dám nói thế, chỉ nội cái việc tội nghiệp, hay tỏ ra ga lăng quá mưc vơi phụ nữ, cũng sẽ bị gán cho tội “phân biệt giới tính’. Hihi, tớ nói ra thì có vẻ hơi khó tính đó, nhưng mà đàn ông bọn mình nói với nhau trước, chứ nếu không nói ra thì có ngày mấy chị em xé xác bác VV à.
Tôi vừa dự hội đền Hùng (trên mạng)
Tiện tay ghi lại vài dòng… buồn vui
Đất địa linh ở vùng Phú Thọ
Mở Hội to giỗ Tổ Đền Hùng
Gập ghềnh đồi núi chập chùng
Nam phụ lão ấu cùng chung một đàng
Xe với cộ hàng ngàn, như nước
Áo với quần hàng vạn, như nêm
Con dân Việt khắp mọi miền
Hướng về đất Tổ linh thiêng cội nguồn.
Vui cũng lắm, nhưng buồn cũng có
Nhiều kẻ giàu chứng tỏ mình sang
Pháo hoa đêm ấy nổ tràn
Bầu trời rực lửa, bạc vàng thành tro
Chốn hội hè kẻ no, người đói
Cỏi trần ai người tội, kẻ công
Tổ ơi , Tổ có biết không ?
Bánh “Trưng” nhậu với rượu nồng Vod ka
Bốn nghìn lít tính ra đâu ít
Lại thêm vài tấn thịt làm mâm
Mười ngày Lễ Hội, hàng năm
Có làm Văn hóa nâng tầm lên chăng ?
Chốn hội hè kẻ no, người đói
Cỏi trần ai người tội, kẻ công
Công với tội kể ra khó nói
Chỉ thương thay con đỏ trên đồng
Cày sâu cuốc bẩm đổ mồ hôi
Gạo thơm dẻo đem mang nấu rượu
Mặc cho người bữa đói bữa no
Than ôi! cho những kẻ pha trò
Bác lo xa quá, nếu làm phép tính sau :
Mỗi phút quảng cáo trên VTV hết khỏang 20 tr Nông đức Mạnh thì việc làm trên lời vô cùng phải không bác ? sau đó xẻ ra bán cho dân làm kỉ niệm ( trừ một số đem biếu ) giống như bên trời tây người ta bàn mảnh cỏ của sân vận động ấy mà !
Lãi chán !
Quan trọng là không phải nộp các lọai thuế trên sản phẩm này, lại càng lãi bác à !
Nói chung ở đây có hai phần : lễ và Hội.
Lễ thì mặc bay, còn Hội thì ta buôn bán chứ !
Cứ như bác thì…. mùa đông này mẹ không còn lạnh nữa !
Đang buồn buồn gặp thơ bác Lạc
Đọc một lèo thấy khác trong người
Thơ như hải sản còn tươi
Nhậu vào khỏe khoắn gấp mười ngày qua
Ka ka ka!
Bác Mèo Hen được ăn hải sản
Như mèo già gặp phải cá tươi.
Ăn xong bác mới mỉm cười
Gọi vợ:
Em ơi..!!!
Anh khỏe bằng mười lần anh.!
….
ke ke ke
Đến bamboospirit@
Vâng, tôi là Đoàn Nam Sinh viết sách Về Đông sơn – Hùng vương, có phần tìm hiểu một số trống đồng. Hôm nay vào đây thấy anh Đỗ Thành giới thiệu một số công trình, rất mừng.
Nhân việc DC nhắc về sĩ Nhiếp ở Bắc Ninh mà buồn cười. Có lẽ nên đọc chuyện Trương Trọng và Hán Minh Đế mới biết là Trương Trọng là người Nhật Nam, đỗ Hiếu liêm và sang Tàu làm thái thú Kim Thành trước khi “Sĩ vương” sang ta hơn tám mươi năm ! Chuyện ông ta có công là công với Tàu. Người Việt trước đó không những tiếp thu văn minh Phật học của Ấn trước Tàu, dịch kinh tại Luy Lâu, mà còn giỏi văn minh Hán (Trương Trọng) hơn cả Hán: tranh luận mà vua Hán và triều thần phải khâm phục. Thế đấy.
Còn chuyện Giỗ Tổ, hôm qua tôi đến thắp hương đền Hùng ở Bảo Tàng Thành Phố HCM, khi về có gặp nhà báo được đặc biệt mời dự tại Suối Tiên. Suối Tiên là nguồn thu của ThỦy, do anh ba Vui quản. Sau phần rước Tổ linh đình là tới đám rước Hồng Hài Nhi, sau nữa là Di lạc,… Thế mới biết độ đậm đặc vật chất của những vì sao lùn…văn hóa nó kinh dị dường nào.
he he có cả rước Hồng Hài Nhi, sau khi rước Tổ hả bác? Vui nhỉ
Chuyện thật đấy. Đằng sau khoảng chấm chấm ấy còn khối chuyện cười ra nước mắt. dường như họ làm một món cocktail Nho Thích Đạo và Tiên Phật Thánh Thần chi đó. Ý họ nâng các vua Hùng lên Thánh thì các vua k Hùng thành Á thánh đấy mà.
Cái ni còn gọi là Huyền Huyền Sử.
Đến một lúc nào đó con cháu chúng ta muốn tìm hiểu Nguồn Cội đếch biết đường đâu mà mò, vì trên bàn thờ Tổ (tiên) nhiều Ngài quá, mà các Ngài thì Á-Âu-Ấn chi cũng có đủ..he he..có đủ y hệt các Cụ ngồi Chiếu Quê Choa ặc ặc…
TN
bọ cho con nhờ chiếu tí, nói riêng với Hiếu, một chuyện lạc đề nhưng con không thể không nói dù cũng không muốn nói.
Chào bạn Hiếu,
1. Hôm rồi mình mới chỉ bàn về cái còm cách đây vài tháng của mình mà đến giờ Hiếu vẫn nhắc và có vẻ làm cho Hiếu thương tổn. Về cái còm ấy, cho dù có nick cho rằng lẽ ra Hiếu phải hiểu ý mình chứ, thì mình vẫn cứ thật lòng xin lỗi. Mình xin lỗi không phải vì mình có ý xấu, mà vì mình để người khác hiểu lầm, ấy cũng là sai.
Người quân tử đi qua ruộng dưa, rơi mũ thì cúi xuống nhặt, như thế cũng là sai. Sai vì dù không ăn cắp dưa nhưng để cho người ta tưởng bị ăn cắp mà sinh bực dọc. Dù không làm việc xấu nhưng để cho người ta hiểu nhầm, bực dọc thì cũng là một lỗi vậy. Do đó mình thực sự xin lỗi.
2. Mình cũng thật sự “choáng” khi đọc cái còm dài thướt tha phê bình mình của bạn. Bạn phân tích, mổ xẻ, rồi từ chuyện thời nay, bạn chuyển sang Khổng Tử, rồi gọi còm của mình là BẨN. Mình tự hỏi có cần thiết đến thế không?
Bạn Hiếu ạ, dù sau đó bạn có gỡ gạc, thì bạn nghĩ xem đó có phải là lời của một người bạn dành cho một người bạn không?
Mình không rõ còm của mình có BẨN không, nhưng một khi bọ Lập đã xóa đi rồi mà sao bạn còn bới lên thế? người ta không còn đọc cái còm ấy nữa, thì có thể tưởng tượng nó bẩn đến cỡ nào và nghĩ gì về mình? Như bác Dân Choa đã nói, sự tưởng tượng còn kinh khủng hơn thực tế.
Mình cũng nói thẳng là bọ xóa cái còm ấy vì mình nghĩ, nó công kích một cá nhân cụ thể. Nếu đó chỉ là một ai đó chung chung thì chưa chắc bọ đã xóa. Cái còm ấy tồn tại cũng lâu trước khi bị xóa, có lẽ bọ cũng suy nghĩ. Có lẽ bọ chỉ sợ mang tiếng là tạo môi trường cho mọi người công kích cá nhân thôi (như vụ thơ giải A).
Ở đây trên chiếu, phần lớn anh em đều hiểu nhau, thương nhau, sợ làm nhau buồn, có gì không hợp nhau thì xuề xòa đôi ba câu để tỏ ý mình rồi thôi. Bạn thừa hiểu mình là người có ăn có học, ai không đồng ý gì thì chỉ cần nhẹ nhàng nói là mình hiểu họ muốn gì. Nhưng bạn viết rất dài, phẫn nộ và gay gắt, như thể Dr Bích là người thân của bạn vậy. Thường thì bạn không viết còm dài như thế. Và nếu bạn phê bình mình vì yêu quý mình, thì chắc chắn lời lẽ của bạn đã khác, như mình đã phân tích. Và trong lúc viết cái còm ấy, bạn có đặt câu hỏi mình sẽ nghĩ gì về bạn?
Là một người bạn, bạn có thể góp ý vì tình thương, nhưng bạn là ai và quyền gì mà “đấu tố” mình như thế?
Mình có cảm giác như bạn nếu có cơ hội thì lao vào biến mình thành một tên tội đồ của Quê Choa, làm mọi người hiểu sai về mình và làm méo mó hình ảnh mình trong mắt mọi người, một kẻ nói tục, đùa tục, phá phách. Mình ngạc nhiên vì cách cư xử của bạn sau vụ Như Mai, nhưng mình nghĩ sông có khúc, người có lúc; nhưng rồi đến lần này thì mình thất vọng vì khi hiểu rõ Hiếu hơn thì những thiện cảm trước kia của mình bị phai nhạt. Mặc dù lần này bạn “lên tay” hơn so với vụ Như Mai, không còn “bốp chát” thế nữa, thì cái lòng không tốt của bạn nó vẫn cứ lồ lộ ra, nhất là qua cách bạn dùng từ BẨN dành cho mình, một người bạn.
Mình thử tưởng tượng (giả sử thôi) một ngày nào đó, nếu ts, em xinh mà có một cái còm kinh thiên động địa đến đâu, trừ khi họ liên tục làm như vậy, thì mình cũng không nhẫn tâm phê phán họ như thế. Còm của bạn mới là BẨN ấy bạn ạ vì nó thiếu tình người. Cái còm ấy sẽ còn mãi và là một bằng chứng về tính cách của bạn. Những ai tinh ý khi đọc sẽ hiểu bạn hơn.
Nhân bạn kể chuyện Khổng Tử, mình cũng xin kể chuyện Khổng Tử. Một người khoe với KT “Xóm tôi con người rất thật thà, bố mà đi ăn cắp là con đi tố ngay”. KT mới phán: “Bố đi ăn cắp mà con đi tố là bất nhân. Xóm của tôi, bố đi ăn cắp thì con gọi riêng bố vào nhà, đóng cửa rồi khuyên giải”
Bạn ạ, mình chỉ nói 60% những gì mình nghĩ thôi, mình nghĩ thế này là đủ vì cũng đủ để bạn biết rằng mình biết 40% còn lại. Những người như bạn, mình gặp rất nhiều nơi công sở.
Mình chỉ muốn nói với bạn: chiếu rượu này rất nhiều người lớn tuổi, họ trải đời, hiểu người. Bọn nhãi ranh chúng mình có thể nói trắng nhưng nếu đen thì họ vẫn thấy là đen, không qua mắt ai đâu. Và trong thế giới thật, đừng làm với ai những chuyện mà bạn làm với mình trong thế giới ảo, một lời khuyên chân thành đấy, bạn nhé.
Chào thân ái
Dr Yuri Andreyevich Zhivago
Địa chỉ: phố Camergue, Moskva, CCCP
Ô hô, tui hơi say, không dám còm nữa, nhưng trời xui đất khiến, lại đọc cái còm của Chú!
Chú Zhi, chuyện của chú với Hiếu nào đó, tui có đọc qua, quên rồi nếu không đọc còm ni của Chú!
Nói Chú đừng giận, thấy Chú mới là người đáng trách khi viết Còm ni! Còn Hiếu kia tui không biết thế nào, nên hơi đâu mà trách!
Người ta có nghĩ mình thế này thế nọ, chắc gì họ đã nghĩ thật lòng như thế, nếu không do mình! Mà có thực họ nghĩ như thế thì cũng đễ cho mình tốt hơn thôi, có gì phải giận, phải thanh minh thanh nga. Mình không phải vậy, mà họ nghĩ mình như vậy họ sẽ có ngày đau khổ vì điều họ nghĩ về mình, dù mình cũng không muốn điều đó đối với họ. Nhưng mình có muốn hay không thì không thể thoát khỏi quy luật của muôn đời: Có vay có trả!
Thực lòng tui, tui rất mến và quý Chú, tui chỉ mong chú dành thời gian cho những điều hợp với Chú thôi, không thì phí lắm! Không dễ gì, có được nhiều người như Chú đâu.
Nói như vậy, không ngoài cái tình của tui với Chú!
Chúc chú Zhi của BSD luôn luôn vui, khỏe!
BSD.
Bác BSD còm phát này vừa có tâm vừa có tầm, kinh thật.
Thấy bác quí mỗi CHÚ mờ chẳng thấy quí CÔ tí nào làm em tủi thân quá
Zhi thân mến,
Tối nay đọc comm này của Zhi, thấy có gì đó có vẻ hơi căng căng, anh mới quay lại entry “Bà Đầm Bic” đọc lại comm của Hiếu và câu trả lời ngăn ngắn của Zhi, thấy sự việc cũng không có gì đến nỗi phải căng đến thế.
Qua vài bạn bè trên QC, anh đã biết hai đứa bọn em ngoài đời là ai vì thế đều rất quý mến. Theo anh, hai đứa nên làm lành đi, chuyện chẳng có gì mà…
Bọn em vui, anh cũng vui lây, Chiếu rượu cũng vui thêm.
Mấy lời tâm sự chân tình, hy vọng Zhi và Hiếu nghe anh và bác BSĐ, cho cuộc đời mãi vui trong tình bạn hữu!
Nào, hun mỗi đứa một cái.
Thân mến,
Anh MH.
cám ơn anh MH và BSD nhé. Nhưng anh Mèo Hen này, ở QC em có quen ai ngoài đời đâu? hay anh/họ nhầm em với ai khác? thú thực là không ai biết em là ai cả………….
Chú Zhi cứ học tập bác Mèo Hen. Mặc dù già yếu hom hen nhưng tinh thần lúc nào cũng lạc quan yêu đời và “Yêu đời bao nhiêu, ta càng yêu người bấy nhiêu”. He hè. Bác Mèo hen vui với chiếu rượu Quê choa nhưng không được quên nhiệm vụ đấy nhé. Cô Mèo mướp có cái râu thính lắm đó. Có mùi lạ là Cô Mèo Mướp biết ngay đó. Có lỡ vui quá mà la cà thì trước khi về phải liếm mép thật sạch kẻo cô Mèo Mướp biết thì chiếu rượu Quê Choa lại mất đi một chủ Xị cừ khôi.
To Zi and Hiêu: Thôi chuyện gì đã qua nên cho qua đi, bọ biết các bbạn đều là những người bạn tốt, đáng yêu, nên yêu nhau đi, he he
con cám ơn bọ nha. lâu lắm mới được bọ đích thân rê còm, thật vinh dự!
Zhi này! nói nhỏ nghe! Bác Mèo Hen mặc dù tâm hồn trẻ trung nhưng xương cốt, gân góc nhảo cả rồi. Vì vậy Zhi phải gọi bằng Bác chứ bằng anh thì e không phải đạo.
thuanbai: cháu cám ơn bác nhé. bác Mèo tự nhận là sinh năm 1970 thì cháu gọi là anh, chứ bác í có sinh năm 1907 thì có trời mới biết được
Tuần vừa rồi ts đi vắng, không biết có chuyện gì? Tuy nhiên có lẽ cũng nhỏ thôi mà…zhi là một chàng trai tốt, có cá tính nhưng chắc cũng vì tuổi trẻ nên bồng bột thiếu chín chắn…trên QC nhiều khi chỉ vì một chuyện cỏn con mà nhiều người cũng không giữ được bình tĩnh nên cãi nhau ỏm tỏi…Có những bác rất cực đoan khi thần tượng bị sụp đổ… dù ai cũng chỉ là một con người bằng xương, bằng thịt không đáng để cho những người có chút hiểu biết kính yêu hoặc căm thù thái quá! ts nói loanh quanh thế chắc Zhi hiểu? Tóm lại, cái gì cũng có thể xảy ra và cái gì ta cũng có thể chịu được! Còn cái chuyện rơi mũ thì ts lại quan niệm thế này, mình hãy sống thế nào để khi mình có hái dưa đi nữa thì mọi người cũng không bao giờ nghĩ là mình ăn cắp-thế mới là quân tử!
hơ hơ hơ, cám ơn ts, em hiểu ts dù ts loanh quanh. ts đặt vấn đề theo kiểu…. trường phái lãng mạn. nếu đúng thế thì……………..
Anh giề đi chơi về không có quà gì cho em à, hay là chị cả vơ hết?
ts đi tung của(ai cung ghét) quà thì phải gặp mới có vì mọi thứ bên đó đều rẻ…ghét mà vẫn phải mua mới đau chứ!
Người ta nói:”Rượu nhạt uống lắm cũng say.”
Một ngày nhảy vô nhảy ra cái chiếu rượu
này mấy lần (mà toàn rượu ngon nữa chứ)
không say mới là chuyện lạ.
Chúc các bác cuối tuần vui vẻ.
Trả bài mạnh khỏe.
Em út lẻ tẻ.
Nhậu như chẻ.(tre)
…
kính mấy Bác ly cuối rồi cháu lượn.
Chuyện đời, cười khóc mặc ai,
riêng ta tìm rượu, lai rai đỡ sầu!
BSD.
Chuyện đời, cười khóc mặc ai,
Riêng ta tìm rượu để mai khóc mình!
BSD.
@Thuận Nghĩa !
Rảnh rỗi anh uống trà và luyện yoga cho khỏe, bàn chuyện sử sách rồi có bằng Lã Bất Vi không ? Hihihi. Gàn nào cũng không bằng mấy gàn kiểu Trần Mạnh Hảo đâu nhé !
Bảo trọng !
Nghe đâu, có người tìm được hóa thạch vỏ trứng Âu Cơ, ANH CÓ TIN KHÔNG ? KHÔNG TIN THÌ VỀ VN LÀM NGHỊ SĨ !
Cảm ơn TS!
Hì hì…
ai nói mình ngu: Sướng
ai nói mình dốt: Khoái
ai nói mình đần: Đã
ai nói mình hèn: Thích
ai nói mình kém: Hài lòng
ai nói mình điên: Thú
ai nói mình liều: hơi ơn ớn
…
nhưng ai nói có người gàn hơn mình, thì tức tối lắm, có thể đêm nay không ngủ vì uất, mình gàn thế mà có người gàn hơn mình chăng?
(He he…cũng tu rồi đó chớ, nhưng cái bài ni đụng đến cổ học nên ngứa ngáy trong người khó chịu lắm, thì cứ coi như một chuyện vớ vẫn thư giãn cuối tuần vậy TS hỉ)
TN
hehe, TN có bảo hay nhầm giữa hỏi và ngã, “thưởng” thức đấy nhá!
@Như Mai!
____
Bạn nhầm rồI, bài viết trên là của anh Đỗ Thanh, chứ không phải của Đồ Gàn TN.
Hì hì… dạo nầy thấy nghi chữ nào là nhảy vô Google, gõ thẩm tra lại, nên trình độ “hỏi-ngã” của mình khá lên nhiều rồi
Anh Thành là người Hoa, công trình này chưa công bố, anh gửi vô mail của mình, mình thấy hay, lạ và có một hướng nhìn mới về Lịch Sử, nên post lên cho Bà Con Quê Choa đọc tham khảo thôi.
Lâm Yên Như mới là bút danh của Đồ Gàn ở Hải Ngoại ạ
TN
Vua Hùng bảo:
– Được hưởng phúc lộc con cháu thấy cúng giỗ linh đình, pháo hoa sáng lòa, đỏ vàng chói mắt ; đât nước lạ lùng, mặt mũi không quen. Ghé qua Q.C đọc còm cũng tịt vì kô hiểu chữ nghĩa. Thôi ta về Giời đây! ” TẠM BIỆT VÀ HẸN GẶP LẠI”
Khà…khà…!
BSD.
Thục Phán An Dương Vương mới là ông tổ Việt Nam, Ông đã thống nhất lãnh thổ Âu Việt và Lạc Việt thành nước Âu Lạc .Vua Hùng chỉ là vua của Tộc Lạc Việt mà thôi.
Ủa, cái này có thật hả bác Phú? nguồn ở đâu thế, cho em biết với?
Chắc chắn rằng Vua Hùng Vương chỉ là vua của Bộ tộc Lạc Việt chứ không phải là Âu Việt và càng không phải là Âu lạc ta ngày nay
Tôi cũng không tin rằng lời chúng ta nói ở đây đã lọt nổi vào tai những người nắm quyền chức. Có lẽ họ lại quy kết chúng ta là phản động để bỏ ngoài tai không biết chừng. Họ đâu có nhớ lời HCM là phải lắng nghe quần chúng !
Người dân phản đối quá chừng những chuyện lãng phí cho các đại lễ nhưng từ nay đến cuối năm chắc có lẽ sẽ còn nhiều dự án đột nhiên xuất hiện nữa đấy.
Nghèo mà tay chơi bạo như nước mình kể cũng hiếm có trên thế giới !
Khách du lịch đến Việt Nam họ đâu chỉ ở Hà Nội. Họ muốn đi tàu hoả xuyên Việt. Muốn đi về các vùng nông thôn. Dân ta ăn ở, sinh hoạt còn vô cùng nhếch nhác.
Bao nhiêu tiền bạc chỉ để tạo nên một mụn vải hoa loè loẹt trên cái áo rách rưới xơ xác bẩn thỉu, thử hỏi ích gì ?
Cháu là người quen mờ.
Tại vì 2 bác DC , Lacdan
bảo cháu đổi nick đấy chứ.
Nếu Bác duyệt thì xóa cái
còm này luôn nha.
Cháu cảm ơn. Lồ ô.
Cháu chào các chú các bác.
Theo cháu nên thờ Hòn Đá
(Tại từ HĐ có thể tạc ra bất
kể thứ gì.)
Với lại theo học thuyết của
ông gì đó thì con người xuất
phát từ con khỉ mà con khỉ do
Tôn Ngộ Không sinh ra .Rồi HĐ
nở ra TNK.
Chúc các chú các bác mạnh khỏe.
Tiền kiếp là Bác Nhà đòn
Đầu thai Trần thế bác làm Lồ Ô
Thôi thì cứ tụng Nam Mô
Kiếp nào bác cũng là “bồ”, nhậu chơi!
Nếu không ngại, ôi xin đưa công trình nghiên cứu anh Đổ Thành Nhạn Nam Phi lên cho bà con Quê Choa khảo cứu nhé
___________
Chào “Lâm Yên Như” !
_Tôi Còn nhớ ngày tình cờ trở lại trang Việt share làm đọc giả và thưỡng thức “hoa lạc giữa rừng gươm”…
– Đáng lẽ những bài khảo cứu lịch sử của tôi đã được công bố trên blog vietshare mấy năm trước nếu như không có cái đám người “gập cái gì cũng chữi” trên blog vietshare và nhất là “dị ứng” với “người Hoa” và “Chữ Hoa” mà trong sự thật thì lại là “người Việt” và “chữ Việt”…
-Hôm nay vào thăm blog cuả anh thì thấy bài Viết về phản biện với 1 bài viết tai tiếng mà anh dùng bài “Nguồn gốc chữ Nôm” của tôi để làm tài liệu , hoan nghinh tinh thần và việc làm của anh; tôi thì sau “kinh nghiệm” trên blog Vietshare là ĐÃ TRÁNH NHỮNG DIỄN ĐÀN…, bây giờ thì tôi chuyên tâm biên soạn những phần khảo cứu thành từng bài ngắn rồi lần lượt ra mắt đọc giả trên 1 số trang web, suy cho củng thì “đa số” đều là “nạn Nhân” cuả lịch sữ bị cải biên, bị ngộ nhận, cho nên tôi Giận nhưng “nạn nhân” thì ít và đôi khi khó giận ! Nhưng tôi sẽ giận những người có điều kiện và thấy được sự thật mà lại cố chấp và tìm cách không tôn trọng sự thật ! và trước hết là tôi tìm cách phổ biến sự thật và rất cám ơn những người có lòng góp công và góp sức phổ biến rộng rải sự thật, cho nên tôi viết thư nầy để cám ơn anh là vậy.
_ Những bài khảo cứu lịch sử của tôi thuộc về 1 dạng qúa mới , và đã mở ra được 1 hướng mới để làm rỏ lịch sử và cội nguồn văn hóa Bách Việt Tộc, Rất may là hiện giờ đã được nhiều người trong cũng như ngoài nước đã tiếp nhận và công nhận và khuyến khích ; Tuy nhiên là vậy , Nhưng các bài viết của tôi cũng khó phổ biến là vì phải thể hiện chử Tượng hình-Chử Vuông/ Nôm-Hán, Có người trích đăng đã bị thất bại ở chổ thể hiện những font “cổ Văn”, và computer người nào thiếu cài Font chữ “cổ Văn” thì đọc cũng mất hay, mất chính xát khi thiếu font chữ Nôm-Hán…Có lẽ sau nầy thì tôi sẽ gôm lại đễ thễ hiện bài bằng “hình” thì ai cũng xem được đầy đủ dù có cài font Hán, Nôm hay không.
_ các bài viết của tôi đăng trên các trang web đều có luật tác quyền, nhưng các bạn của tôi và anh đăng lại thì xin yên tâm, mail nầy là một bằng chứng, là tôi vui vẽ, và còn gữi lời cám ơn đến anh “Thuận Nghĩa” đó nha Lâm Yên Như
– Tôi bận lo chú trọng phần khảo cứu lịch sử mà chưa phiên dịch nhiều bài thơ (Điều mà tôi thích nhất!), Sẵn đây xin hỏi là mai mốt anh cho phép tôi coppy và trích nhiều bài từ blog của anh qua nhannamphi.com là blog của tôi ? vì nhiều bạn bè bên Mỹ không có vào vnwebblog mà nhiều bài viết của anh nhất là về y khoa là tôi muốn giới thiệu và phổ biến lắm.
…Còn đây là những bài khảo cứu lịch sử của tôi mà hiện giờ nhiều người đang tiếp tay để phổ biến rộng rải :
http://nhannamphi.com/
http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=view&id=1795
http://www.anviettoancau.net/anviettc/index.php?option=com_content&task=contentbyauthor&author=DoThanh&name=Đỗ Thành
http://newvietart.com/index4.603.html
http://www.google.com/search?sourceid=navclient&aq=hts&oq=&ie=UTF-8&rlz=1T4ADBF_enUS330US331&q=VI%e1%bb%86T+NH%c3%82N+CA%e3%80%8a%e8%b6%8a%e4%ba%ba%e6%ad%8c%e3%80%8b%3a
http://www.google.com/search?hl=en&rlz=1T4ADBF_enUS330US331&q=VI%E1%BB%86T+NH%C3%82N+CA%E3%80%8A%E8%B6%8A%E4%BA%BA%E6%AD%8C%E3%80%8B:&start=10&sa=N&filter=0
http://donguyeenthanhh.spaces.live.com/
Phát Hiện Lại Việt Nhân Ca – Diễn đàn Lý học Đông phương
http://ngnnghc.wordpress.com/2010/02/25/viẹt-nhan-ca/
Van Bản Học — Blogs, Pictures, and more on WordPress
Bách Việt Sử – Những lớp bụi mờ của lịch sử
–
khoa hoc@doi song/Phat hien lai Viet Nhan Ca
Phiem Dam online – Vài lời với bà Đỗ Ngọc Bích _ Hà Văn Thùy
Phát hiện lại Việt Nhân Ca (越人歌) – văn học & nghệ thuật
BBC Vietnamese – Diễn đàn – Vài lời với bà Đỗ Ngọc Bích
VĂN-NHÂN – dòng HÙNG – VIỆT – Yahoo! 360plus
…Rất nhiều người đã tiếp tay phổ biến những bài khảo cứu mới của tôi, nhưng các bài viết nầy là qúa “mới” và rất nhiều người chưa bao giờ “thấy” qua !!!!! và tất cả triệu triệu người , và trường học và “giáo khoa” còn dạy sử cho học sinh theo kiểu xưa dài dài…mà họ chưa đọc bài “Việt Nhân ca” và “Duy Giáp lệnh” và “nguồn gốc chữ Nôm” và …tôi còn phải tiếp tục viết bài kế tiếp….và rất mong nhiều bạn tiếp tay phổ biến….
Chúc anh an vui
Đỗ N. Thành
_____
Lâm Yên Như là một bút danh khác của Đồ Gàn ở Hải Ngoại
Bọ xóa dùm em một cái còm dư ạ
TN
Cảm ơn Thuannghia@… mình mới xem qua các đường link cậu cũng cấp ! Mình đã copy lại làm tư liệu.
Gửi Quí Bác đọc thêm nhé!
_________-
30 September
Bách Việt Sử : Những lớp bụi mờ của lịch sử ̣( 2 )
Sở楚 LÀ VIỆT越 …là Văn-Lang .
_Sở có phải là Việt Không ?
_ Phải. Sử Ký Tư Mả Thiên ghi rỏ Sở và Việt đồng tông đồng tộc, ngày xưa là ngôn ngữ giống nhau, sau nầy thì còn giống nhau 1/2, ngày nay tiếng Quan-thoại đã chiếm lỉnh vùng đất Sở, nhưng vẫn còn nhiều từ cổ Việt được dùng, và đối chiếu với tiếng Việt bên Ngô-Việt và Mân Việt là giống nhau, và dĩ nhiên có từ cũng giống như tiếng Việt -Nam.
Văn Hóa Sở có thời xưng mình là Shan 商-Thương, Ân Thương殷商 Âu-Nhân 甌 人 ( Âu-Nhân chỉ là phiên âm , Âu-Nhân 甌 人= Ân, tức là Ân Thương ) rồi xưng là Sở 楚. Sở là 1 quốc gia rộng lớn, văn hóa và ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ và văn minh Sở tiến bộ rất sớm, đã tồn tại và ảnh hưởng bao trùm nhiều nơi, “Sử Ký” chép rằng Vua Sở Chúc Hùng 楚鬻熊 là Thầy dạy học cho Châu Văn Vương cuả NHà CHU.
_Sở Còn có nhiều tên gọi của Đất Sở, nước Sở, Người Sở, do Cách phiên âm khác nhau cuả từ “Sở” thành ra nhiều chử sở. Phiên âm là 1 hình thức dùng chử đã có rồi đễ diễn đạt chử chưa có cuả tiếng nói, ví dụ cụ thể là cho đến ngày nay thì rất nhiều tiếng Việt vùng Quảng-Đông và 20% tiếng Mân Việt / Triều châu còn chưa có chử viết !
Sở Còn Gọi là Kinh, Kinh Sơ, Cửu Khuẩn, Kinh Man, và 1 số tên khác cũng trong phạm vi SỞ.
_Còn Gọi là Si-Vưu, là Triều -Ca, Thương Ngô, Cứ Âu .
_Còn gọi là Phù Dung Quốc, Dương Việt .
_Còn Goị là Cộng Nhân, Quỉ Phương, Cổ Muội .
_Gọi là Việt-Khu.
_ Phạm Vi của Sở gồm phần đất ngày nay thuộc: Các tỉnh 湖南Hồ Nam、湖北Hồ Bắc、重庆Trùng Khánh、河南Hà Nam、安徽An Huy、江苏Giang Tô、江西Giang Tây v v…và các bộ tộc “Cữu-Lê九黎”.
***Giải mả Bí mật cổ sử Sở bằng tiếng Việt ***
_Sở 楚: Chử xưa là tượng hình, chử Sở gồm 2 cây ( Chử Lâm 林 phía trên gồm 2 chử mộc 木 ) và phía dưới là dây leo quấn hai chân cây 疋 = Sơ( chử Sơ 疋 bộ tẩu ) phát âm theo Tiếng Madarin là CHsùa, tiếng Mân Việt là chsó, tiếng Việt-Quảng-Châu, Phiên Ngung là chsỏ, Đúng ra thì phải đọc phát âm là “Sở ” theo chiếc tự của Sơ -Lâm, nhưng lại có 1 cách đọc phát âm là: ” Trầu “, và dấu tích của âm đọc là Trầu còn lưu lại qúa nhiều …Chử Si- vưu chính là phiên âm của chử Trầu: Si-Vưu=蚩尤, Bỡi vì Si-Vưu vô nghiã, Si-Vưu chỉ là phiên âm, và đánh vần phiên âm là ra chử Trầu mới là “có nghiã” và “Đúng nghiã ” với chử tượng hình đã thể hiện, nếu như phiên âm đánh vần là “Sưu ” hoặc “Sừu” thì lại vô nghiã, nhưng, dân vùng Phiên Ngung ở Quảng Châu ngày nay vẫn đọc 蚩尤 là Chsia-Dầu, Chsia -ầu-Chsầu, tức là thật ra là ” Trầu ” ( Đọc theo tiếng Việt Chuẩn là giọng nói của Miền Bắc thì TR phát âm như là CH, “Trầu” là “Chầu” ) và đã có 1 âm Sơ-Lâm là Sở thì mới đúng Chử 楚 đã vẽ hình dây Trầu quấn trên cây, bỡi vì xét về thực vật: dây trầu quấn cây Cau là Đúng nhất cho chử Sở, và khi cổ sử nói về Si-Vưu / Chsia-Dầu là luôn nói về Si-Vưu ở vùng đất Sở.CHƯA CÓ AI PHÂN TÍCH THEO KIỂU NẦY ! VÌ: theo tài liệu Sử thì Sở là Việt, cho nên tôi thử dùng các “phương ngôn:”Việt” đễ giải mã những điều khó hiểu, và đây là 1 lối suy luận hửu lý, chứ không có tài liệu sử sách đễ dẫn chứng, đúng hay sai ? thời gian và sự tiến bộ trong việc tập trung tài liệu của nhiều người nghiên cứu sẽ kiểm chứng lập luận của tôi và có câu trả lời …
_Vậy Si-vưu theo cổ Việt -nhả ngữ là Chsén-Dầu, đó là phiên âm Chs-ầu.
=>chsầu=Trầu; Si-Vưu=蚩尤=Trầu. tương tợ Chsầu, chsỏ , chsó ,chsùa , tsù ..viết là : 楚
…Sở là Việt, mà lại dính líu với chử “Trầu” ? đúng vậy! Người Việt Nam và người Đài Loan ngày nay vẫn còn rất nhiều người ăn Trầu, và là 1 đặc điểm hiếm hoi của nhân loại.
( Ngoài ra: Người Mèo 苗 tôn Si-Vưu là thần “Thái tổ”, và gọi là ” txiv -yawg “…đọc nhanh cũng đúng là 1 dạng của âm chử TRẦU …Đây là 1 đặc tính Bách Việt mà ngày nay người ta còn chưa hiểu hết; Nghiã là ngày xưa Sở hay Việt-Trầu đã thống lãnh hàng trăm bộ tộc “Bách -Việt ).
_Theo Khảo cứu của tôi thì Si-Vưu Ở nước Sở và chính là Sở, vì bản thân chử Si-Vưu đã là “Trầu” là “Sở” như phân tích…nhưng có qúa nhiều thuyết, …nhiều đến mức kinh-hoàng cho những người khảo cứu đầy đủ, có thuyết tôn Si-Vưu và Viêm Đế là 1, có thuyết: Si-Vưu và Viêm Đế là 2 đế khác nhau, có thuyết Si-Vưu là Quan dưới quyền Viêm Đế v v…
_Xin Trích 1 đoạn chử Cổ -Việt / Hoa nói về Si-Vưu có liên quang đến Cữu Lê: ….蚩尤為首的九黎族=Si vưu vi thủ đích Cữu Lê tộc…, có qúa nhiều truyền thuyết nói về Si-Vưu, có thuyết nói Si-Vưu ở tây, có thuyết nói ở đông, có thuyết nói ở nam với người Mèo / Hmong, có thyết nói ở Bắc như người Korea có quyển sách 《Hằng Đàn Cổ ký桓檀古記》-(환단고기)nói rằng Si-Vưu là Vua ở Bán Đảo TRiều Tiên; nhưng, chú ý: Si-Vưu được tôn làm ” Chiến Thần ” nên nhiều người tranh dành …cũng phải !!! và qúi vị thích nghiên cứu sử cần chú ý điều nầy: phiên -âm chử “Cữu- lê” sẽ ra chử “kỳ “, phiên âm chử “Giao-Chỉ ” hay “cao-Chỳ “sẽ ra chử “kỳ”,và đặc biệt là Cửu-Lê lại rất giống …gần như 100 phần trăm với “Cao-Lệ -高麗-Korea”, và cũng có tài liệu Korea liên quan đến Bách Việt, ngày nay các bạn trẻ người Việt khi học tiếng Hàn Quốc – Korea sẽ không lạ gì các từ “Han kok” là Hàn Quốc, “huynhdai” là Hiện Đại , “yu Hạc senh” là Du học sinh, tên gọi “Kim Yang” là Kim – Anh, “Dong kun” là Đông Quân v v…
_Vì theo những khảo cứu vừa được nêu trên thì chử viết trong sữ “Si-Vưu”: chẵng qua chỉ là phiên âm chử “Trầu “, mà người ta đã lầm, không dùng tiếng Việt, phủ nhận gốc Việt, không biết hay không đọc là Trầu mà lại đi đọc là Si-Vưu cho nên vô nghĩa, và từ cái vô nghĩa, cái không hiểu nghĩa đã sinh ra ngộ nhận và cho là “HánTự- chử Tàu”, rồi thêu dệt truyền thuyết ! truyền thuyết đã thêu dệt “Ông” Si-Vưu là lảnh tụ rất thiện chiến, khi ra trận biết phun lữa, chặt đầu nầy lại có đầu khác…, rỏ ràng đó là sự diễn tả Si-Vưu là 1 tập thể thiện chiến, giỏi trận pháp, dương đông kích tây, du kíck chiến, mai phục v v.., và biết dùng hỏa công chứ không phải là 1 người ! chẳng qua vì sự ngộ nhận của các đời sau phủ nhận gốc Việt hay không hiểu tiếng Việt mà người ta dựng ra 1 nhân vật như thần tiên vậy! Ở Trung -Quốc Từ xưa và cho đến nay vì …người ta đã tôn thờ “ông” Si-Vưu là “chiến -Thần “, nên trước khi ra trận đánh giặc là làm lễ cúng bái “Chiến thần ” là ông Si-Vưu !!! thật ra …”Chiến Thần” đó phải là nước Trầu và lại là lảnh đạo, là “Vua” của các bộ tộc Cửu -Lê 九黎-Cửu lê lại vô nghiã !!! theo truyền thuyết thì liên quang đến Cửu lê có đến hàng 100 bộ tộc, thuyết nói 9 bộ tộc là căn cứ theo chử “CỮU 九”, thuyết chánh yếu mà nhiều người tin và trích dẫn nói là có đến 81 bộ tộc-81 lại là cách dùng 9 x 9 .., 81 hay hàng 100 bộ tộc thì không thể là ” CỮU九” ! “Cửu -Lê 九黎” chỉ là phiên âm đễ chỉ hàng trăm bộ tộc ở phía nam có tên gọi là “Kỳ “, Sở trong Hoa sử có đất KINH, mà lại có “Trầu” lảnh đạo 九黎Cửu-Lê là Kỳ! Sử Việt thì gọi đất Việt là Đất Kinh và Đất Kỳ! nghiên cứu mới cho thấy rỏ đường thiên di của nhân loại là từ Đông nam Á tiến lên phía bắc v v.., nếu đánh vần theo giọng Việt Quảng Đông, thì Cửu-lê là “Cao-chìa” sẽ ra chử “kỳ”…còn đọc theo “Cữu-lê” sẽ ra âm “kê” hay “kề”, đọc CỮU-LI sẽ ra âm “KY” hay “KỲ”, tiếng Phổ thông cũng đọc “li” chứ không đọc “lê”, về sau thì xuất hiện chử “giao Chỉ ” mà nếu đánh vần phiên âm cũng là “kỳ”, dân thành phố PHiên Ngung ngày nay ở tỉnh Quảng Đông vẫn đọc Giao Chỉ là “Cao-Chĩa/ cao chìa “, đối chiếu lại thì thấy rỏ ràng “cửu Lê ” và “giao Chỉ ” chỉ là 1 tên có phát âm là “kỳ”, và GIAO-CHỈ hay CỮU-LÊ là vô nghiã, cho đến thế kỷ 21 mà khi tra cứu tự điễn Bách Khoa và cổ thư v v…thì thấy giải thích sở dĩ gọi là “Giao Chỉ” vì dân vùng đó có 2 ngón cái của 2 bàn chân chià ra, khi đứng thì giao nhau, nên gọi là Giao Chỉ !!! và lại có cách giải thích khác là dân vùng đó …khi ngủ thì 2 chân đễ chéo chử thập, 2 chân giao nhau nên gọi là giao chỉ !!! Cách giải thích như viết truyện thần thoại hay …làm phim “khoa học tưỡng tượng” như vậy mà đã tồn tại trong lịch sử mấy ngàn năm…thì rỏ ràng là những người có tâm huyết ở thế kỷ 21 nầy nên phải bỏ công ra đễ viết lại lịch sử là 1 điều bắt buột phải nên làm !!! âm Quảng Đông của “CỮU-Lê” lại có 1 phát âm là “Cẩu -lỳ”, Có lẽ chính vì âm “Cẩu” không tốt khi ĐỌC và NGHE, cho nên mới được người ta tránh mà sau nầy không còn dùng “Cữu-Lê” nữa, chỉ còn có âm Cao-Chỳ, Giao-Chỉ xuất hiện mà thôi, những tên xưa thường hay được dính líu và kéo dài đễ dùng đến tận ngày nay, Vùng Lạng-sơn có sông Kỳ-Cùng và Phố Kỳ-Lừa là 1 thí dụ thú vị; chữ viết ngày xưa khác nhau từng vùng vì giao thông đâu có thuận tiện và tính thống nhất đâu có mạnh như bây giờ, cho nên sau nầy Tần Thủy Hoàng mới ra lịnh thống nhất chử viết ;_ Hàng 100 bộ tộc Cữu-lê/ kỳ có lảnh đạo là si-Vưu /Trầu nhập lại… tính ra hẵn là bờ cỏi phải mêng mông lắm và cổ thư còn ghi lại gọi là “Liệt -San thị”: thật ra “Liệt-San” đó chính là phiên âm chử “Lang-sang” tức là Lang ! “Lang” là khi ngôn ngữ đó đã được đơn âm hóa, và “Lang-sang” hay “Van” “Lang-Sang” hay người Hoa Viết Sử gọi vắng tắt là Shan商 “có nghiã là “Vạn Tượng” chính là nước “VĂN-LANG”…; qúi vị nào hiểu nghĩa tiếng Thái, Lào, Choang ngày nay sẽ hiểu nghĩa nầy, “Van” là “Vạn” của 1 vạn, “Lang” là “lang-sang” là “Liệt -San” hay Shan商, hay “VănLang”, Văn-Lang của người Việt cũng chỉ là 1 quốc gia duy nhất mà người ta đã viết và đọc theo nhiều cách, qúi vị chú ý chử Shan商 dịch theo từ Hán-Việt là “Thương” hoàn toàn trùng hợp với tiếng Việt là “Tượng” tức là “Voi”,”Tượng” ngày xưa đọc là “Tương” là lẽ thường tình! Bỡi vì cổ Việt ngử đâu có A B C và dấu Nặng! vùng “Sở”, “Trầu” “Vănlang” phải là rất rộng như truyền thuyết nước Văn-Lang bắc giáp Động -Đình Hồ, Đông Giáp biễn và Nam giáp nước Hồ-Tôn, Hồ-Tôn là giọng Mân Việt Ô-sinh >Ying, giọng Quảng-Đông là Wùa hay Huà-siń >wiǹg, âm Wìng, hay Ying̃ / yin đều là chữ Vin / Vân của Vân-Nam là tỉnh Vân Nam bây gìờ; còn âm của chử viết là Liệt-San, yue-Lang, Văn Lang đều phát âm giống nhau, nghiã là nước “VanLangshan” cuả người Việt, “Văn-Lang” qúa rộng thì các bộ tộc qúa nhiều và có “đánh nhau” cũng là chuyện thường, đều đó càng làm cho Bách Việt Sử rối mù bỡi “Tinh thần địa phương”, truyền thuyết Phù-Đổng thiên vương chống giặc “Ân THương” nếu xét cho kỹ lưỡng biết đâu là chuyện nội bộ ??? truyện Trụ -Vương mê Đắc-kỹ , sa đọa và phung phí ở Cung Đình nên phải thu thuế tô địa nhiều, bắt lao công v v…nên nhiều dân địa phương phải chống lại và tự lập lảnh địa “quốc” riêng là đúng thôi ! …Ai chứng Minh được Trụ Vương là Du Mục hay là Hung-Nô ??? Chử viết lưu lại là Trụ Vương tên Đế Tân, chử Trụ chẵng qua là Chử “Trư” là “Con heo” cuả tiếng Việt, “Đắc-Kỳ”, “Na-tra”, “Khương Tử-Nha” “Cơ Phát” “Cơ Xương” đều là tiếng Việt, 1 số những tên tiếng Việt Đa âm còn sót lại trong câu truyện tự nó sẽ làm rỏ nguồn gốc Việt! những ai hiểu Hoa văn 100 phần trăm ngày nay có thể nào giãi thích cho tôi nghe “Trụ” vương và “Đắc-Kỷ” nghiã là gì ??? nỗi oán hận của người dân thời đó theo tiếng Việt đã chữi “Đế Tân” là “Heo” vì dâm dục mê gái cho nên gọi là vua Heo -“Trư”, “Đắc-Kỷ” là dấu tích tiếng Việt Đa âm, đa âm “Đắc-Kỷ” là “Đĩ” , khi biến thành đơn âm, chỉ có tiếng Việt và người Việt mới hiểu nổi chứ còn ai vào đây được? theo tôi thì khi “Trụ” Vương tỏ tình với “Đắc-Kỷ” thì nói là “Anh yêu em” chứ không phải là giọng “Wò ái nìa” của Hung-Nô! Ngày nay chúng ta vẩn còn dùng từ đa âm nhiều qúa nhiều, ví dụ như: lang-thang, lôi-thôi, thẩn-thờ, lác-đác, ngoe-ngoẩy, kẻo-kẹt, lệch-lạc, lung-tung, liếng-thoắn, bạc-bẻo, tiu-ngỉu, mênh-mông, lung-linh, dịu-dàng, v v…nhiều kinh khủng lắm -Xin qúi vị đọc bài khảo cứu trước của tôi -là tiếng Việt sinh ra Hoa ngữ và Hoa Ngữ chỉ là những tộc khác học được 1 phần của tiếng Việt mà thôi! và cũng chính vì vậy mà Hoa ngữ không thể phiên dịch được hết Việt ngữ, còn Việt ngữ có thể phiên dịch được hết Hoa ngữ 1 cách dễ dàng, có những sách và những người lập luận rằng Từ ngữ Hán-Việt được du Nhập từ Trung Hoa sang Việt Nam vào thời nhà Đường! Xin Chân thành cảm ơn những sách và những người đó! …Lập luận đó tự thân nó đã khẵng định là từ xưa cho đến đời nhà Đường là bên Trung Hoa vẫn còn dùng tiếng Việt; Có 1 bài “Việt nhân Ca” cổ đại đã hơn hai ngàn mấy trăm năm và nổi tiếng toàn thế giới, tiếng Hoa, tiếng Anh và tiếng Pháp v v…đều đã “phiên dịch” bài nầy 1 cách …sai bét !!! tiếng Việt phiên dịch lại từ bản “hoa_Văn” nên cũng sai luôn !!! Vì người ta không hiểu tiếng Việt …và người “Hoa” đã dùng bài nầy đễ chứng minh cổ sử của Trung quốc là “Hoa” chứ không phải Việt! Với lập luận vì là “hoa” nên không hiểu được tiếng Việt của “Việt nhân Ca”, và chuyện bài hát “Việt nhân ca” nầy xảy ra ở nước Sở, xin qúi đọc giả đón đọc những bài khảo cứu sau thì tôi sẽ trình bài rỏ ràng chung quanh bài “Việt Nhân Ca” ở nước Sở ngày xưa chính là 1 bằng chứng Sở là Việt ! Điều nầy là rất quang Trọng: CÓ thể nói rằng đây là Tâm điểm cuả sự nhập nhằn Việt và Hoa, Bới vì ông Lưu Bang và Ông Hạn Vỏ đều là Người Sở, và Lưu Bang đã lập nên nhà Hán, Có thể nói rằng Chứng minh được Sở là Hoa thì nghiã là Hoa đồng hóa Việt !!! và chứng minh được rằng Sỡ là Việt thì nghiã là Việt đồng Hóa Hung-Nô thành Việt mà đổi tên là Hoa. Bài nầy đã chứng minh rỏ ràng Sở là Việt đễ làm mất đi lớp bụi mờ của lịch sử; Tuy nhiên, đễ cho rỏ ràng và chi tiết thêm thì tôi sẽ viết thêm bài “Tự điển Thuyết Văn của Hứa Thận thời nhà Hán” và “Việt nhân Ca”.
Xin trở lại chủ đề:
_đánh vần cổ ngử “Liệt-San” > tức là Li(ệt)- (S)an =>Lan = Lang .
_Viêm Đế / Si-Vưu / Trầu / Kỳ / Văn Lang là thị tộc Việt ” Hùng “, chử viết trong sử là ” Hửu hùng Thị “: đọc là “Dồ Hùng” , đó là một âm của Diệt Hùng , tức là Việt Hùng ( xin xem bài khảo cứu Bách Việt Sử khác sấp đưa ra online ) và Con Cháu các đời vua sau luôn xưng là Hùng Vương như Hùng Tao 熊蚤, Hùng LỆ 熊麗 , HÙNG CUỒNG 熊狂, HÙNG Dịch 熊繹, HÙNG NGẢI熊艾 , HÙNG ĐẢN 熊䵣, HÙNG THẮNG 熊勝, Hủng Dương 熊楊, Hùng cừ 熊渠, Hùng Chí 熊摯, Hùng Diên 熊延, Hùng Dũng 熊勇, Hùng Nghiêm 熊嚴, Hùng Tương 熊霜, Hùng Tuân 熊徇, Hùng Ngạc 熊咢, Hùng Nghi 熊儀, Hùng Khảm 熊坎, Hùng Thông 熊通, Hùng Chất 熊貲, Hùng Giang 熊艱, Hùng Uẩn 熊惲, Hùng Thương -Thần 熊商臣, Hùng Lử 熊侶 , Hùng Thẩm 熊審, Hùng Chiêu 熊招, Hùng Viên 熊員Hùng Vi, v v…
Theo Truyền Thuyết: Hoàng Đế 黄帝Có 1 người con là Xương Ý昌意…-Xương Ý昌意 là 1 trong 25 người con cuả Hoàng đế黄帝, Xương-Ý cưới vợ là người của Thuc̣ sơn thị 蜀山氏tên là Xương Bộc 昌僕 có được 1 người con là Đoan -Hạn 颛顼. Hậu duệ cuả Đoan Hạn sinh ra Cổn 鯀, Cổn Sinh Ra Vủ禹 (…Con Cuả Vủ Là Khải lập ra triều Hạ).
-Đế Đoan-Hạn颛顼 là Con Cuả Xương-Ý.
-Ngô Hồi 吳回 là Cháu đời thứ 5 cuả đế Đoan Hạn颛顼.
_Lục-Tung 陸終 , hay Lộc-Tục do cách đọc khác nhau, là con cuả NGô Hồi 吳回.
_Qúi Liên 季連, về Sau gọi là Chúc Hùng lả con của cuả “Lộc Tung” hay Lộc Tục: có 6 người con, con út là Qúi-Liên.
_Chúc Hùng là Cha cuả Hùng Tao, Hùng Tao là Cha cuả Hùng lệ, Hùng lệ là cha cuả Hùng Cuồng.
-Sở Hùng Dịch楚熊繹 là con của Hùng Cuồng, là cháu chít của Qúi Liên/Chúc Hùng và là Thầy cuả Châu Văn Vương Cuả nhà Chu …và Sau đây là phần tên Vua được đưa vào Sách Sử…viết bằng cổ văn .
***Bảng tên hiệu Sở: Hùng Vương / Tên Họ / năm lên ngôi / năm thoái vị …bằng Cổ Việt Văn: gồm Tên Các vua …
君主 國君名称 上任時間 退位時間
在位年数
楚熊蚤 熊蚤(芈蚤)芈=Mi
楚熊麗 熊麗(芈麗)
楚熊狂 熊狂(芈狂)
楚熊繹 熊繹(芈繹)
楚熊艾 熊艾(芈艾)
楚熊䵣 熊䵣(芈䵣)
楚熊勝 熊勝(芈勝)
楚熊楊 熊楊(芈楊) 前(Tiền: trước công nguyên)
楚熊渠 熊渠(芈渠) 年:Năm
楚熊摯 熊摯(芈摯)
楚熊延 熊延(芈延) 前848年
楚熊勇 熊勇(芈勇) 前847年 前838年 10年
楚熊嚴 熊嚴(芈嚴) 前837年 前828年 10年
楚熊霜 熊霜(芈霜) 前827年 前822年 6年
楚熊徇 熊徇(芈徇) 前821年 前800年 22年
楚熊咢 熊咢(芈咢) 前799年 前791年 9年
楚若敖 熊儀(芈儀) 前790年 前764年 27年
楚霄敖 熊坎(芈坎) 前763年 前758年 6年
楚蚡冒 熊眴(芈眴) 前757年 前741年 17年
楚武王 熊通(芈通) 前740年 前690年三月 51年
楚文王 熊貲(芈貲) 前689年 前675年六月庚申 15年
楚堵敖 熊艱(芈艱) 前674年 前672年 3年
楚成王 熊惲(芈惲) 前671年 前626年冬季十月 46年
楚穆王 熊商臣(芈商臣) 前625年 前614年 12年
楚莊王 熊侶(芈侶) 前613年 前591年秋季 23年
楚共王 熊審(芈審) 前590年 前560年 31年
楚康王 熊招(芈招) 前559年 前545年九月以後 15年
楚郏敖 熊員(芈員) 前544年 前541年冬季 4年
楚靈王 熊圍(芈圍) 前540年 前529年五月 12年
楚王比 熊比(芈比) 前529年春季 前529年五月 未改元
楚平王 熊居(芈居) 前528年 前516年九月 13年
楚昭王 熊珍(芈珍) 前515年 前489年秋季七月以後 27年
楚惠王 熊章(芈章) 前488年 前432年 57年
楚簡王 熊中(芈中) 前431年 前408年 24年
楚声王 熊当(芈当) 前407年 前402年 6年
楚悼王 熊疑(芈疑) 前401年 前381年 21年
楚肅王 熊臧(芈臧) 前380年 前370年 11年
楚宣王 熊良夫(芈良夫) 前369年 前340年 30年
楚威王 熊商(芈商) 前339年 前329年 11年
楚懷王 熊槐(芈槐) 前328年 前299年 30年
楚頃襄王 熊横(芈横) 前298年 前263年秋季 36年
楚考烈王 熊元(芈元) 前262年 前238年 25年
楚幽王 熊悍(芈悍) 前237年 前228年正月 10年
楚哀王 熊猶(芈猶) 前228年正月 前228年三月 未改元
楚王負芻 熊負芻(芈負芻) 前227年 前223年 5年
昌平君 前223年 前223年
楚隠王(張楚隱王) 陳勝 前210年 前209年
楚假王 景駒 前209年 前209年
楚義帝 熊心(芈心) 前209年 前207年
楚霸王(西楚霸王) 項羽 Hạn Vỏ 前206年 前202年
Sở Bá Vương 楚霸王_Hạn Vỏ 項羽 là con cháu đích tôn của Hùng Triều họ Mi 米 ( Mi hay Mị ,Mì , Mễ ) vì tổ tiên được phong đất cho ở Đất Hạn, cho nên lập Tổ dòng họ Hạn; ( cũng như Khuất Nguyên vậy, thời phong kiến thì dòng họ vua thường hay được phong cho Đất đễ lập ấp, lập quốc nhỏ làm chúa nơi địa phương nhỏ và thường hay đổi họ theo đất mình được làm chúa nơi đó ) …Sở Bá vương Hạn Vỏ và Lưu Bang lảnh đạo dân Quân Sở-Việt lật đổ nhà Tần…
***Khảo cứu Một số phong tục vùng Sở -(Trầu / Kỳ / Liệt San-yue Lang -Văn Lang- Việt Lang mà ngày xưa goị là “Sở ” )và ngay nay qúi vị cọ thể tìm hiểu và tham khảo dễ dàng trên các web của các bloger hay trên trang web của tỉnh Hồ Nam hay Hồ Bắc của Tân Hoa Xã:
_Khách đến nhà khi đả mời ngồi rồi thì kỵ lau bàn hay quét nhà, vì như vậy là có ý đuổi khách.
_Khi mời khách ăn trứng gà thì không được đải ăn số trứng lẽ 1 hay 3, nhưng kỵ nhất là đãi khách ăn 2 trứng, Vì “ăn hai” giống như tiếng chữi …”ăn Hại” của tiếng Sở.
_Trước khi ăn, không được dùng đủa gỏ chén, vì chỉ có ăn mày mới gỏ chén ăn xin.
_Sau khi ăn, không được gác đủa lên chén, vì gác đủa lên chén là cúng cơm cho vong linh.
_Đầu của phái nam, và vùng eo của phái nữ là chỉ được nhìn, không được rờ …, nếu bị tùy ý đụng chạm thì coi như là một điều bị sĩ nhục.
_Phải phơi quần áo phụ nữ nơi kính đáo, không được cầm sào phơi quần áo phụ nữ băng qua đường; đồ lót của phụ nữ khi phơi phải tìm ở chổ người ta không nhìn thấy; khi phụ nữ có thai thì không được tham gia tiệc đám cưới; phụ nữ đang có kinh kỳ thì không được vào chùa, miếu; phụ nữ không được tham gia việc xây bếp hay dựng kèo cột trong xây cất.
_Kỵ những từ ngữ hung hiểm, ví dụ: không nói “Chêt́” mà nói “Đi” rồi, hay “không còn nữa”, Quan tài thì nói “thọ tài “, “thọ mộc “; ngày tết không được nói “thấy bà”,” thấy qủy”, “đồ…qủy sứ”…nói chung là kỵ từ ngữ hung hiểm hay xui xẻo.
_ Cha mẹ qua đời thì con trai không cắt tóc trong thời gian 7 Thất (Tuần ) đễ tỏ lòng hiếu thảo khi để tang.
_ Kêu chuột bằng “ông”, chuột rất khôn lanh, nên sợ chuột cắn phá quần áo v v…nên tỏ ra tôn kính mà gọi là “ông” Tí.
_Con một của gia đình thì thường goị là “Chó con”, “Bé “, “Nữ”, “Nố”,”Náo “…Vì sợ ma quỉ xâm hại, sợ khó nuôi.
Ngày Nay thì Văn Hoá Sở đã biến thành đã biến thành văn hóa cuả tiếng Phổ thông / Quang Thoại, nhưng những nghiên cứu về từ ngữ cỗ của lịch Sử còn sót lại mà người ta còn dùng và được biết ở các vùng thuộc Sở lại làm cho tôi giật mình:
-Dù đã bị tiếng phồ thông-quan-thoại thay đỗi, nhưng Nhiều vùng “sở” ngày nay vẫn gọi con của mình là phái nam bằng “trai ” như tiếng Việt, đó là vùng: Nam Xương 南昌/ đọc là “ʦai” như “Chai ” Hay “Trai” 、đó là các vùng Đô Xương 都昌、An Nghiã安義、Tu Thuỷ修水、Bình Giang 平江、Dương Tân陽新、Tuyên Phong宜豐、Tân DU 新喻 、v v…vẫn gọi con trai là “TSai”.
và….
-2 chân giang rộng ra gọi là: “Mở” và Viết là chử 摸 /Mạc – nhưng đọc là “mở”.
-Con ngổng gọi là Ngang, ngo.
-Lớn, goị là “Đại “, viết là 軚/ đọc là Đại.
-Cái Rổ làm bằng bằng tre: gọi là Rổ, viết là 蘿 / đọc là Rổ; có nơi nay đọc lô hay lo, loa, lóa…
_”Hiểu”, vùng Kiến-Ninh 建寧 ngày nay vẫn đọc “Hiểu” 曉 như tiếng Việt .
-“Phan”, vất đồ vật gọi là Phan, viết là 拌 / đọc là “Phan”.
-Bất kể, bất cần mạng sống gọi là “Bán mạng”, những vùng còn nói là “bán mạng” là: ( phát âm có khác nhau 1 chút giữa các vùng ): Nam xương 南昌 / pʰɔn miaŋ、An Nghiã 安義 / pʰɔn miaŋ、Cao An 高安 / pʰɛn miaŋ、Tân Du 新喻 / pʰɔn miaŋ、Bình Hương 萍鄉 / pʰɔ̃ miã、Lễ Lăng 醴陵 / pʰõŋ miaŋ、Kiến Nnh 建寧 / pʰɔn miaŋ、Thiệu Vủ 邵武 / pʰon miaŋ。
_cái lá cây Trúc gọi là Lá, viết là 箬 / đọc là “lá”.
_thấy, viết là 睇 đọc là “Thấy”.
_vùng nước Sâu gọi là “thầm” hay “Than”, nghiã là “Đầm” so với tiếng Việt .
Tất cả những phần khảo cứu tiếng nói và phong tục Sở nêu trên là vào trang nhà trên Internet của tỉnh Hồ Bắc thuộc Tân Hoa Xã là sẽ đọc thấy (trong hiện tại).
…Từ những chứng cứ nêu trên, có thể thấy ngày xưa vủng Sở vừa Đúng là “Trầu”, vừa đúng là Nước Việt / Văn Lang rộng lớn với hàng trăm bộ tộc “kỳ -Cữu lê” nói tiếng Việt, Nếu vậy thì nên đọc địa danh và tên người cũa cổ Sử theo tiếng Việt …
_ khảo cứu 1 số tên Sở theo hướng “việt-Ngữ” thì thấy là, Ví Dụ :
1/ CAN TƯƠNG: phiên âm Can-Tương > “Cương” hay “Cường” / vì chẳng có ai tên là Can -Tương, nếu Can-Tương đúng là tên 1 người thì trước đây đã có người dùng, sau nầy phải có người dùng, và bây giờ cũng phải có người dùng; suy ra, Can-Tương là “Cường”.
2/ MẠC TÀ: …chưa thấy có ai trong sử sách có tên là “Mà””Tà” hay “Mạ” “tà”, phiên âm nầy chỉ theo Mân Việt ngữ mới có nghiã, đọc là “Bạc-ghé” > “Bé”, còn 1 cách đọc khác là “mo -ghé” ra âm “Moẽ”- ( Moẽ là bé gái ), ở đâu có người Triều -Châu và tiếng Mân Việt thì có người gọi con gái là “Moẽ”, ở đâu có người Việt là ở đó có người gọi con gái là “Bé” *** ghi chú : tiếng Mân Việt là Phước Kiến và Triều Châu giữ được rất nhiều Việt Cổ Ngữ, khi phục chế ngôn ngữ Sở hay đối chiếu đễ rỏ nghiã thì các học giã bên Trung Quốc hay so sánh với Mân Ngữ mà tìm đáp số; Ngày nay chúng ta đọc là Mạc-tà, nhưng theo phân tích kỷ lưỡng của tôi thì “bạc -chsé”> tức là “Bé” là tên đúng nhất của người vợ của Can-tương >Cường.
3/CỬU KHUẨN: …Vần phiên âm “Cữu -khuân” >là ” Quân” nầy độc đáo, dù đọc theo giọng Quảng Đông / Triều Châu / Phước Kiến hay Việt Nam đều có kết quả là “Quân”, Đất “Quân” ( Đất Quân hay Quan , Âm thanh gần nhau là tên 1 vùng đất nơi …được gọi là: Sở, Vậy ..không thể nào là “cưũ -khuẩn ” vì nó hoàn toàn vô nghiã …
4/TRIỀU CA: kinh đô của triều Thương / Trụ Vương là Triều Ca, phiên âm giọng Việt Quảng Đông là Chsiều -Co >Chso / chsò, chính là vùng đất “Trầu” hay “Sở”, Vậy không có “Triều -Ca ” chỉ có “Trà” là phiên âm của Triều Ca và phát âm rất giống âm “Trầu”, …chỉ có chso , chsò , Trầu , Sở …bỡi vậy cho nên không có ai tìm ra được kinh đô ” Triều Ca ” cuả Trụ Vương ở Đâu !!! này nay người ta cho rằng Triều-Ca ở huyện Kỳ của tỉnh Hà Nam … và đó cũng là lý do tôi tin rằng Trụ Vương / nhà Thương là người Việt vì kinh đô Mang tên “Triều- ca” thì chính là Sở, và vua nhà Thương họ Chử, là con cháu đế Nghiêu,và có chứng cứ tài liệu là họ biết nuôi Voi thì càng đúng là “VanLangshan” tức là Văn-Lang, thần thánh “phong phú như truyện “phong Thần” là sãn phẫm của văn minh nông nghiệp lúa nước đã định cư thì mới có được truyện như vậy v v… Và người Việt Nam không xa lạ với họ Chử …qua truyện “Chử Đồng Tử”; Triều-Ca là 楚sở.
5/ THƯƠNG NGÔ: đọc theo phiên âm Quảng Đông là “CHSén-ngùa ” > CHsùa =楚sở.
6/ CỨ ÂU: đọc theo phiên âm Quảng Đông “Chsìa-Ngâu” > Chsầu =楚sở.
7/CỘNG NHÂN: Cộng -nhân> Cân; Cong-nan> Can, Cúng -dành> Cánh; Can , cân , cánh , đều là gịong việt, mân, Quảng Đông đễ goị đất “cống” (đất “Quang” ) là Vùng Sở.
8/ QỦI PHƯƠNG: Quỉ -Hoang > Quang là giọng Mân Việt, Đất ” Quang ” là 1 tên khác của Đất sở, Có thể giọng “Quang” là Chính Thức vì rất phù hợp với tiếng Việt; và cũng chính là ” Quang” là chủ ngữ đã sinh ra qúa nhiều tên gọi theo sau: Cân / Can / Cánh, Cung, Cúng và Trở thành Cống ngày nay.
19/ CỔ MUỘI: giọng phổ thông Cuà -Mi >ky hay ” Kỳ “.
10/ 昌意Xương-Ý: giọng Việt Phiên-Ngung còn đọc là Chsen-ià > tức là phiên âm của Chsià 其, “Chsià” hay “Khỳ” hay “Kỳ” ? …”khỳ” hay “Kỳ” là tùy giọng nói của từng địa phương.
11/陸終Lộc tục hay Lộc tung đều có phiên âm là >Lùn ( tiếng Quảng Đông “Lùn” là Rồng ), Long.
….Qua Những khảo cứu và đối chiếu phía trên đả đủ cho ta thấy “Bí Mật” sé được dần dần sáng tỏ. SỞ là Việt như Tư Mả Thiên đã Viết trong Sử Ký là “Sở Việt đồng tông đông̀ tộc”, và cũng thấy được nhà “thương” -“trụ Vương ” cũng là Sở ngày trước, và còn biết được “Can-Tương” và “mạc -Tà” tên thật là gì v v…; và người Sở là Hạng Vỏ và Lưu Bang lật đổ nhà tần rồi lập nên nhà Hán chính là người Sở và nói tiếng Sở và đó chính là “Sở” “văn -Lang” với “Cữu-Lê / Kỳ ” và ngôn ngữ chính là Việt Ngữ; Sách “Thuyết Văn” thời Hán là đọc theo Việt Ngữ lại là 1 minh chứng thêm…; Sở Là Việt, là Văn Lang, người Việt làm sao quên được Văn-Lang? Hoa Sử viết rầng Triều Shan (Nhà Thương) qúa nhiều lần dời thủ đô, mà không nghiên Cứu hoặc chối bỏ là Shan từ đâu đến! Văn-Lang đã bắc tiến từ nam …Đâu dễ gì có 1 ngọn núi là “Lạng Sơn” mà lại trở thành tên của 1 tỉnh? Lạng Sơn hay Lạng-San, hay Lang-Shan, chính là tên của nước “Vănlangshan” còn sót lại khi những vùng đất kia của nước Văn-Lang đá bị đỗi tên thành các vương triều và quốc gia khác nhau theo dòng lịch sử…
Vì có những ngộ nhận hay gian trá và hàng hàng lớp lớp bụi mờ phủ lên bề dầy lịch sử Bách Việt…cho nên bài khảo cứu nầy được suy xét rất thận trọng. Đễ làm sáng tỏ…
Sở là Việt là Văn-Lang trải dài từ phương nam lên Động Đình Hồ với nhiều đời vua với phong hiệu là Hùng Vương.
Nhạn Nam Phi/ Thanh Đỗ
*Ghi chú: Can-Tương và Mạc -Tà là tên kiếm và cũng là tên của Vợ chồng nỗi danh đúc kiếm.
-Bài nầy có tham khảo 1 số web site dưới đây.
楚國
贛語的歷史
贛語中的古百越語詞一覽
贛語中的古吳語詞一覽
MH chỉ đọc được mấy đoạn viết bằng chữ tượng hình, còn lại thì chịu! Tắc tị.
ui dài quá trời, NM cũng không đọc được vài chỗ, chỉ là những ô vuông hệt nhau như có một lần thấy bên nhà O Hà Linh
Dear bác Mèo Hen@, Như Mai@,
Nếu không hiển thị được chữ tượng hình thì có lẽ máy vi tính thiếu fonts. Vậy có thể Google search để tìm download các fonts có phần đuôi thư pháp (miễn phí), xong copy tất cà vào thư mục fonts trong thư mục windows là xem chữ tượng hình được đấy.
Các bài viết phân tích của bác Đồ Gàn về ngôn ngữ Viêt cổ và liên quan giữa chữ Nôm và chữ Hán rất thú vị.
Thân chúc cuối tuần thư giãn vui vẻ.
Kính.
🙂
@Cụ MH và Như Mai!
Ủa sao kỳ vậy, máy của em đâu có cài kiếc chi mô, cả máy bàn và máy xách tay cũng rứa, cứ tự động mở ra là đọc được thôi mà, đâu có thấy ô vuông hay ô trống, ô đen chi mô hè…
TN
Gửi Người Học Trò!
Bác đã nhầm rồi, đây là bài của anh Đổ Thanh Nhạn Nam Phi, một nhà Hán Học có tiếng tăm ở hải ngoại, chứ không phải là của Đồ Gàn.
Đồ Gàn là Lâm Yên Như (một bút danh khác ở hải ngoại của Thuận Nghĩa)
Phần đầu của bài viết tôi đã có viết rõ và trích đăng thư của anh ĐT viết cho Lâm Yên Như rồi đó
Bài viết này tôi thấy rất hay cho việc truy tìm tư liệu và chứng cứ để làm sáng tỏ vấn đề: Tại sao Hoàng Đế Quang Trung khi đánh tan 20 vạn quân Thanh xong thì dâng biểu đòi lại Lưỡng Quảng cho Đại Việt. Giả dụ như Hoàng Đế không bị đột tử, thì Lịch Sử đã có cái nhìn khác bây giờ. Biên giới của Nước Việt Nam ta sẽ bao gồm đến tận Động Đình Hồ cơ. Chứ không phải thụt lùi nhường thác Bản Giốc, nhường Hoàng Sa, Trường Sa cho bọn bành trướng đâu. Nghe đâu còn có chuyện tranh chấp cả đảo Bạch Long Vĩ nữa mới vô lý chứ.
Chúc một cuối tuần vui vẻ
TN
Chào bác Đồ Gàn,
Cảm ơn về phản hồi và bài post của bác nhé.
NHT có nhớ nhưng chưa chắc lắm nên cần kiểm chứng lại chút xíu về việc liên quan đến tranh chấp giành đòi lại Lưỡng Qủang ngay từ thời Lý Thường Kiệt cơ đấy.
Kính chúc bác cuối tuần vui vẻ,
NHT
🙂
Dear bác Mèo Hen@, Như Mai@, thuannghia@, Ngườihọctrò@…
…
Không đọc được font tiếng Hoa không phải do “máy vitính” thiếu fonts mà do phần mềm (hệ điều hành) hay trình duyệt (Webrowser) không tích hợp các fonts chữ đó.
Mời các bác vô đường link sau đây để tải về (download) trình duyệt Firefox 3.6.3.
– http://www.mozilla.com/en-US/firefox/3.6.3/releasenotes/
– http://www.mozilla.com/en-US/products/download.html?product=firefox-3.6.3&os=win&lang=en-US
…
Trình duyệt Firefox (Cáo lửa) của Mozilla là trình duyệt nguồn mở và miễn phí có ưu điểm tốc độ lướt web nhanh hơn IE8 30%, Google Chrome, Safari,…; lại có bản tiếng Việt,… luôn cập nhập phiên bản mới nhất,… có hầu hết các fonts chữ phổ biến trên thế giới, kể cả font chữ Latin, ả-rập….
Dung lượng chỉ 7,96 MB (chưa bằng 1/2 của IE8). Muốn cài đặt tiếng Việt cũng được.
Khi tải về rồi, nên cài chế độ “Custom” để biểu tượng (icon) xuất hiện trên cả desktop, thanh công cụ (task bar) và star. Luôn cập nhật add on !
Mình hay dùng FF nên bác nào post (copy & paste) kiểu chữ gì cũng thấy cả !
http://www.mozilla.com/en-US/products/download.html?product=firefox-3.6.3&os=win&lang=en-US
Chúc
uơ, phục quá
Nghi ngờ là một công cụ của khoa học.
Tín ngưỡng dân gian không phải là sản phẩm của khoa học, mà là di sản tinh thần, di sản phi vật thể của dân tộc, của bất kỳ quốc gia dân tộc nào.
Không thể chiếu những nghi ngờ trong khoa học vào tín ngưỡng, tôn giáo. Mặc dù có tôn giáo rất gần với khoa học như Phật giáo.
Đức tin, niềm tin là điều không thể thiếu của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Thiếu điều đó, dân tộc đó sẽ trở thành những tập đoàn người du canh, du cư mà thôi.
Em xin có đôi lời như vậy. Mong các bác chỉ giáo.
Bác nói vô cùng chính xác, BSD cũng nghĩ vậy, có điều BSD không có đủ khả năng diễn đạt gọn gàng, hết ý như bác!
Cảm ơn bác rất nhiều
BSD
Giỗ ai cũng có định hướng của Đảng cả.Đảng bảo giỗ là giỗ.Đảng bảo bỏ là bỏ kể cả bỏ giỗ bố mình!Théc méc của con bé có thể trả lời như dzậy là đúng với sự thật hiện hành.Rồi đây sẽ có cả giỗ chú Lê văn Tám,Nguyễn văn bé..ấy chứ!
Đây mới là đáp án cho một phương trình vô số nghiệm.
Hỏi riêng…bác có dòng họ gì với Tô Định không vậy? 🙂
18 vị vua Hùng không có ai chết đâu. Thánh mà! Cũng xin đừng cúng giỗ linh đình kẻo các cụ trở thành người thượng giới rồi xa dân lành. Đọc sử sách nước nhà tôi nghiệm thấy: Mỗi khi nước Việt có biến các cụ tổ lại cử một vị vua đầu thai trở lại thành người anh hùng ra ta cứu nước, đánh đuổi ngoại xâm. Mấy nghìn năm đến Thế kỉ 20 đã linh ứng rồi đấy. Còn chúng ta chỉ có mỗi nhiệm vụ là học tập tốt, cống hiến tốt để xây dựng đất nước ta văn minh giàu đẹp.
NM@, thanks NM đã tìm hộ nhà bác VTN nha
VTN@, con vô nhà bố rùi, chia sẻ với bố, chú ruột con cũng vậy đó, chẳng biết bi giờ ở đâu làm cho bà con buồn cho tới lúc chết
Bên blog Tầm Vông có mấy cmt cùng chung chủ đề, gửi luôn chị KD:
“Khắp nơi ăn chơi thả dàn, nghi ngút vàng hương, đập đập xây xây, sơn sơn quét quét. Tất cả bằng một màu và chất liệu hiện đại (nhưng rất nhà quê) !
Một Hà Nội cổ kính đâu còn ? Bản sắc ư ? Còn đâu ! Người ta đến du lịch là người ta muốn tìm một HN chính là HN chứ không phải cần một HN hiện đại. Vì nói về mặt hiện đại thì có đổ cả núi tiền nữa HN cũng không theo kịp các TP hiện đại trên thế giới ! Em không phải người HN mà em còn chạnh lòng thì không biết người HN buồn đến đâu. Ôi cơn sốt của lễ hội và ăn theo…
Chàng ơi, khi nào gửi vòng hoa cho ML, chàng nhớ gửi một vòng hoa ảo nhưng được chụp từ hoa thật nha. Đừng bắt chước HN mà gửi ảnh vòng hoa giấy, nhựa cho ra vẻ hiện đại thì em rầu lòng lắm.
___—-
Nhìn nhận một cách bao quát thì có thể nói rằng chúng ta đã nuôi một đội ngũ chuyên về lý luân, lý thuyết nhiều quá. Có lẽ nhà nước nên rà soát và dứt điểm hơn trong việc cắt giảm biên chế cho đội ngũ này. Không nghĩ ra việc gì làm nên thỉnh thoảng họ lại ném ra xã hội những nghị định, chính sách, thủ tục, dự án bất hợp lý, khiến cho xh đã chậm phát triển lại càng bị cản chân hơn. Có lẽ hiếm có quốc gia nào mà tổ chức hội họp, hội thảo quá nhiều về những ngành xã hội như ở VN. Phát minh, sáng tạo về khoa học kỹ thuật thì hầu như là con số không vậy nhưng những bài viết vô bổ thì cứ đều đều được xuất lò từ các hội thảo.
Lãng phí, tổn thất không hề nhỏ nếu nghĩ đến hậu quả mà “tệ nạn” này gây ra trong thực tế.
Ta nên chú ý đến việc đào tạo các chuyên gia giỏi kỹ thuật như lời của Lenin dạy hơn là cần các chuyên gia giỏi nói.
Muốn thu hút được đội ngũ này thì chú ý đến khâu đãi ngộ. Giảm biên chế các cơ quan chuyên nói đi thì sẽ giải quyết được khâu này.
__________
Tưng bừng lễ hội khắp nơi và gần như quanh năm hội thảo quốc tế (tổ chức tại VN), hội nghị cấp Quốc gia, cấp viện, cấp trường ĐH, cấp tỉnh …, đâp phá nhiều thứ còn mới để xây lại , sao người ta không thấy biết bao nhiêu nơi giáo viên ko có nhà công vụ để ở, cho dù chỉ là nhà vách đất ? Mỗi lần xem TV thấy chiếu cảnh họ quá cơ cực mà tôi không hiểu những ông như ông Rứa, thậm chí ông Triết nghĩ sao về trăm ngàn tỷ chỉ để dành cho những rước xách, lễ hội các kiểu, các địa phương, lễ hội hoa, pháo hoa…? Sao các ông phát động phong trào tiết kiệm trong cả nước để lấy tiền nâng cao dân trí ? Hóa ra ban tuyên giáo phát động học tập theo HCM là chỉ để mấy bà nông dân mỗi ngày bỏ vào con lợn một ngàn đồng thôi ư ?
Nhìn thực tế như thế này ai tin nổi “lời nói đi đôi với việc làm” như các quan vẫn dạy bảo ?”.
__________
Chẳng biết thế nào nữa, sao gần đây ý Đảng càng ngày càng…chênh với lòng Dân thế nhỉ ? Cảm giác là một vài chủ trương ( vội vàng khai thác bauxite, rùm beng Hà Nội 1000 năm…) thì chỉ có được lòng Quốc Hội hay sao ấy. Nghĩa là, ý Quốc Hội cũng chẳng trùng với ý Dân luôn.
Lạ nhỉ ! Lạ nhỉ !
Giá như người ta cứ thử làm một cuộc trưng cầu dân ý về chuyện tổ chức lễ lạt thôi để biết ý từng người dân thế nào nhỉ, dẫu sao thì Quốc Tổ cũng là chung của từng người chứ có phải là riêng mấy vị Quốc Hội hay Chính phủ đâu. Phàm là người Việt thì được quyền có một góc chiếu giữa đình mà luận bàn chuyện họ tộc chứ, không lẽ kể cả những việc ấy cũng là độc quyền của vài cụ tiên chỉ hay dăm ông trưởng chi ?
Hồi nhỏ em được theo cha về họp họ, bất cứ ai cũng được hỏi, được có ý kiến về việc lớn việc nhỏ trong làng ngoài họ cả. Không lẽ cơ chế thời nay còn lạc hậu hơn cái lệ trong họ Nguyễn con con ở xó ruộng quê nhà em ngày ấy ? Quỹ họ đóng hàng năm cho ông Tộc trưởng thật đấy, nhưng ông ấy mà xài bậy dù là cho việc Họ cũng không yên đâu, tội Lộng quyền khá nặng đấy ạ.
Mà, nhà quê nhưng các cụ rất “văn minh lịch sự” nhé. Trong Họ đang có tang ma, ngoài làng gặp buổi khốn khó là các trò vui đình đám bị hoãn lại hết. Trống đánh cũng phải bớt dùi, cờ treo rủ…chứ không phải như ta nay, người lao động cần lao thì chạy ăn mửa mật, trò nghèo gặp “học phí tăng hợp lý” thì ngậm ngùi bỏ lớp bỏ trường Rồi thì giá diện tăng, giá thuốc bệnh tăng…mà chính quyền dốc tiền thuế dân ra làm mấy trò “leo cột mỡ” mừng lễ này hội nọ, thấy nó vô cảm, mất nhân tính lắm.
Hay là gioăng đệm bị thúi, chảy dầu, hả?
Buồn tênh cho khách giang hồ,
Bỗng dưng sao lại lần mò đến đây.
Canh trường giấc điệp còn say,
Bừng con mắt dậy mới hay giật mình.
Hóa công cũng giống vô tình,
Làm chi sự bất thình lình trêu ai?
Rồi đây quấy nước đục trời,
Còn thân còn để cho đời biết tay…
To Bò sát đất: Trong khả năng của mình, KD chỉ xin chuyển đến VNN như đã trao đổi với Bọ thôi. Còn hy vọng biết đâu, những cấp quản lý cao hơn nữa, có đọc QC, và suy nghĩ về các com của các bác trong chiêu rượu thì đó lại là chuyện khác, BSD ạ.
Nhưng dẫu sao, vẫn rất cảm ơn ý kiến chân thành của Dong, xó bếp, và của BSD.
Tui cũng thực lòng rất mong các bác ở cấp quản lý cao hơn nữa của Kim Dung, chí ít bỏ chút thời gian để hiểu tâm tư nguyện vọng của người dân chúng tui như thế nào!
Được thế, chúng tui có chết cũng không dám mở mắt!
BSD.
Xin bác @Kim Dung chớ có làm việc đó ! Hãy để cho trời tròn và đất vuông cho nó lành, tự nhiên đưa ra vấn đề trái đất tròn làm gì hờ bác ?
Thấy một lũ lớp nhớp cúi lạy rồi cho là việc đó là việc dâng hương với Tổ tiên mà cám cảnh ! Đất nước này mà kể cho Tổ Việt nghe thì … họa có chớ lúc ông ấy say mới dám nói !
Rồi một lũ bồi bút khoa tay múa bút lung tung cả lên , làm cho việc định hướng quan điểm của nhân dân rối tung rối mù.
VNN lúc này cũng vậy, chắc cũng không vượt qua nổi cái mũi giày của mình đâu bác ạ !
Cứ như qua luật, hãy chờ cho qua cái gọi là đại hội rồi … tính !
Mong bác nghĩ lại , chớ có góp ý cho dù đúng nữa bác à.
Đốt nén hương tại bàn thờ gia tiên , nhờ tổ tiên ông bà báo cáo với tồ Việt dùm là chúng con vẫn mang dòng máu Việt của Tổ Tiên !
Đi đâu cho xa,…
hôm nay ngày ghỉ đáng ra phải lói chiện ăn chơi nhảy múa dưng mà đọc cái quy hoạch thủ đô trên tuổi trẻ:
“Triển lãm này sẽ mở đến mùng 1-5 để người dân đến tham quan và đóng góp ý kiến. Sau khi ý kiến người dân được tập hợp về, Bộ Xây dựng sẽ xử lý thông tin và chỉnh sửa bản quy hoạch phù hợp hơn. ”
http://diaoc.tuoitre.vn/Index.aspx?ArticleID=375058&ChannelID=204
và cái này bên bauxitevn:
“Chúng ta được Nhà nước cấp cho 300 triệu đồng để tổ chức nghiên cứu đóng góp ý kiến về Quy hoạch Thủ đô trước khi trình lên Quốc hội, nhưng tôi băn khoăn chúng ta sẽ góp ý kiến với ai đây? Liên danh tư vấn Quốc tế PPJ là đơn vị trúng thầu ký hợp đồng giá trị gần 7 triệu USD, nhưng người trực tiếp làm Quy hoạch lại là Viện Quy hoạch Kiến trúc Bộ Xây dựng và Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội. Hôm nay hồ sơ gửi đến đây cho chúng ta có cả các chữ ký của ba đơn vị nước ngoài và hai cơ quan Việt Nam. Họ cùng ký trên một hàng ngang như nhau tức là họ cùng đồng trách nhiệm, cũng tức là sẽ KHÔNG CÓ AI CHỊU TRẤCH NHIỆM CẢ”.
http://boxitvn.wordpress.com/2010/04/23/khoa-h%E1%BB%8Dc-trong-quy-ho%E1%BA%A1ch-th%E1%BB%A7-do/
Thử hỏi:
– với mấy ngày, ngay cả dân chuyên ngành còn chưa nghiên cứu kịp huống gì dân “ngoại đạo”. và khi ngân được thì …
– với ngay cả dân chuyên ngành thì “băn khoăn chúng ta sẽ góp ý kiến với ai đây?”
Chuyện quy hoạch cho tương lai là chuyện lớn mà các bố cứ như chuyện đùa….
.. e rằng mọi người góp ý vô ích. Khi mà người ta mở rộng thủ đô theo kiểu chụp giựt (tỉnh Hà Tây), sau đó thấy nó mênh mông và thiếu cơ sở pháp lý quá thì nguwòi ta lại chạy đôn chạy đáo để thông qua … Luật thủ đô.
Các bác góp ý “quy hoạch thủ đô” rồi nhỡ ra “Luật thủ đô” thông qua tháng 5 tới có những điều luật “bác bỏ” ý kiến của các bác có phải phí công không ?
Hu hu…
Nói là làm, năm 2007, người ta tạo ra một… dự án rồi dựng nên một ngôi đền trong khu vực Chùa Hương. Gọi là đền thờ… cha của các vua Hùng: Lạc Long Quân. Ông Tổ… bố ! (Chẳng biết căn cứ vào hình hài ở đâu để có tượng Tổ bố nhỉ ?)
Năm ngoái, sau 2 năm xây dựng người ta rùm beng làm lễ khánh thành đền thờ Lạc Long Quân (28/03/2009). Đủ các quan chức đến dự nha. Trước đó người ta đã cho đúc pho tượng ông Tổ… bố rồi (họ gọi là tượng “Quốc Tổ Lạc Long Quân”) tiến hành ngày 07/02/2009 tại khu vực đền Hùng. Rồi làm lễ “dâng hương” Tổ bố ngày mùng 6-3 Âm lịch (19/4/2010).
Còn tại sao lại là ngày mùng 6-3 thì chỉ có Trời mới biết ? Từ nay người ta sẽ “ăn giỗ” ông Tổ bố (Lạc Long Quân) vào ngày mùng 6 tháng Ba lịch ta và “ăn giỗ” các ông Tổ con (Vua Hùng) ngày mùng 10 tháng Ba.
Hợp lý nhỉ ? Chả nhẽ cúng Tổ bố lại sau ngày Tổ con ? Nếu cứ theo báo chí và đài phát thanh nhà nước các cấp thì ngày mô, 6-3 hay 10-3 cũng Quốc Tổ cả ! Rồi đây, người ta đưa ra Quốc Hội hợp thức hoá và quyết luôn những ngày giỗ các Quốc Tổ. Khi đó bà con ta tha hồ mà được nghỉ lễ cả tuần ! Sướng nhé ! He he
______
(Rứa cho nên Việt Sử dù là cổ sử, hiện sử, hay tương lai sử đều là Huyền Sử tất tần tật chớ răng nữa.)
_______
Thế mới có chuyện con trẻ học lớp 3 lớp 4 lại cắc cớ hỏi bố mẹ. “Việt Nam mình có mấy ông Tổ ? Mình đang lo ngày mai, con mình lại hỏi. “Tại sao chỉ cúng Lạc Long Quân mà không cúng Âu Cơ hở ba ?
Ừ nhỉ ? Không có Tổ bà thì lấy đâu có “trăm trứng” để mà có con đàn chắt đống ngày nay ? Tổ bố có bằng thánh cũng đố rặn được trăm trứng ! Biết đâu, nay mai Hội Phụ nữ Việt Nam lại lên tiếng đấu tranh và phê phán các ông mà rằng: “đến như giỗ Tổ mà còn trọng nam khinh nữ” !
(Chí lý chí lý….cụ Súng Hóc ạ)
He he… tưởng rằng cái thuở chưa có khoa học phát triển, dùng huyền sử, truyền thuyết để ru dân. Hóa ra bây giờ thế kỹ 21 rồi mà vẫn sử dụng “phương pháp luận khoa học” phổ biến trước … Công nguyên (BC) ! Hu hu…
hôm nay đọc bóa thấy cái tin này:
TTO – Triển lãm Quy hoạch chung xây dựng thủ đô diễn ra từ ngày 21-4 đến ngày 1-5, tại Trung tâm triển lãm Vân Hồ (số 2 Hoa Lư, Hai Bà Trưng, Hà Nội) do Bộ Xây dựng và UBND thành phố Hà Nội tổ chức đang thu hút sự quan tâm của rất nhiều người dân Thủ đô cũng như các nhà đầu tư.
http://diaoc.tuoitre.vn/Index.aspx?ArticleID=375058&ChannelID=204
…
“Triển lãm này sẽ mở đến mùng 1-5 để người dân đến tham quan và ĐÓNG GÓP Ý LIẾN. Sau khi ý kiến người dân được tập hợp về, Bộ Xây dựng sẽ xử lý thông tin và chỉnh sửa bản quy hoạch phù hợp hơn. ”
Hài hước không chịu được … chưng ra cái mô hình trong mấy ngày … rồi bẩu dân ĐÓNG GÓP Ý KIẾN … muốn cười mà cười không nổi.
đọc thêm: http://boxitvn.wordpress.com/2010/04/23/khoa-h%E1%BB%8Dc-trong-quy-ho%E1%BA%A1ch-th%E1%BB%A7-do/
rồi cái quy hoạch này chung số phận (đầu hàng) là chạy đua theo quy hoạch tự phát thôi !
Người âu mĩ biết Dớt chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng như chấp nhận là một đức tin để dựng đền thờ là chuyện hoàn toàn khác so với Tổ bố của chúng ta. Rõ ràng là truyền thuyết nhưng thấy các vị (toàn cỡ Thứ… với Bộ…) thắp hương khấn vái như có thật [síc!] lại còn truyền hình trực tiếp trên VTV cho thiên hạ biết là đã nâng lên cấp QUỐC GIA chứ không phải lễ hội dân gian nữa.
Thật là khôi hài hết biết.
Người âu mĩ biết Dớt chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng như chấp nhận là một đức tin để dựng đền thờ là chuyện hoàn toàn khác so với Tổ bố của chúng ta
————————
Thưa bác, bác có thể giải thích là khác ở chỗ nào không ạ?
“Rõ ràng là truyền thuyết nhưng thấy các vị (toàn cỡ Thứ… với Bộ…) thắp hương khấn vái như có thật ”
thế là đủ khác rồi mà!
May mà chúng ta có truyền thuyết Âu Lạc (Âu cơ và Lạc Long, hehe) nếu không là có ngay đền thờ…A Đam & Eva rồi đấy.
Có khác nhau không hả EM XINH?
Ở nước ta có một dân tộc (cùng với mấy quốc gia láng giềng theo đạo Balamon) thờ cái duy trì giống nòi rồi đấy ! Họ tôn lên hàng thần. Linga & Joni !
To Dong: Cảm ơn cái com của Dong. KD đã đọc cái com của Dong khi trả lời Paul, một cái com đúng đắn, trí khôn, có lý có tình về chuyện TS ĐNB. Còn hôm nay, Dong chắc đọc trả lời của KD với Bọ, sẽ chuyển ý kiến của Bọ tới VNN. Quan điểm của KD có khác gì đâu.
To Xó bếp: Xin đọc lại câu trả lời của KD với Bọ. xobep hãy tin rằng những người cầm bút chân chính, ko ai thờ ơ với những cái xấu, sâu mọt trong xã hội. Họ, trong đó có KD đều có những nỗi đau của sự “bất lực” đó. Nhưng sự phân định trong lĩnh vưc chuyên môn cũng rất cụ thể. Những câu hỏi của xobep đều phải tầm quản lý mới trả lời được
@Kim:
chiện làng mai và bát nhã là… chiện “nội bộ” của người tu hành… các cơ quan đoàn thể đã giả nhời đầy đủ … cố gắng tìm lại mà đọc.
còn các vứn đề khác thì cố gắng tập hợp thêm nhiều … câu hỏi vào nhá (chẳng hạn như tại sao bọ nập gặp việt kiều CAnada về lại “đọa”- gặp việt kiều thì phải vui, phải khỏe … cứ rứa hi), …
xin hứa … đến 2030 định hướng đến 2050… giả nhời luôn thể
Thanks bác thang@
Ui chiếu rượu đề tài ni rôm rả dử hè mấy bác cho Học Việc tham gia mấy ly. HV có đọc mô đó (KTNN thì phải) rằng sử bên TQ có viết về vua Hùng và nước Văn Lang ở phía nam cùng thời với nhà Chu bên họ tức là khoản 600-700 năm chi đó TCN vậy là vua Hùng 18 đời chỉ trị vị khoản 400 năm thôi chứ mấy mà truyền thuyết ta lại ăn gian thêm 2000 năm lựng. Cũng theo TT thì Lạc Long Quân và Âu cơ lấy nhau bên Hồ Nam TQ thì mắc mớ chi mà Việt Nam lạị thờ tổ. Còn sau đó Âu Cơ có đem con xuôi về nam đến Phú thọ lập ra triều đại Hùng Vương thì miềng phải thờ Tổ Mạ chứ răng thờ Tổ Bố. Hi… hi. Mà chừ cho HV hỏi cắc cớ các bác câu ni nữa đây Vua Hùng họ chi? Bác mô nói được HV xin mời cả chai 700…ml
Cái này thì …. để mình xem đã! có gì thì Đồng chí phải viết vài chữ bỏ lên bàn thư ký, thư ký đưa tôi xem xét, sau đó tôi mới….chuyển đúng ban ngành mới tham mưu cho chú được! thế nhá! mau lên đấy để tôi còn xem xét…..
Mới “học việc” mà đã dòm ngó, ý kiến,ý cò nhiều thế! thư ký đâu! nhớ chuyển cậu này sang bộ phận giữ xe…để đảm bảo công tác bảo mật nội bộ nhé. 🙂
Cái “sử” mà HV nói đó mình nghi các nhà sử học theo trường phái Tàu ghi lại trong “ĐVSK…” đấy !
Bài nhàn đàm của Sao Hồng với cái giọng “tưng tửng”, thiệt “có ní”. Rồi lại được đọc mấy cái còm của cái bạn khác thì cứ bò lăn ra cười, báo hại mất ngủ cả đêm. Vợ mấy lần định gọi xe cấp cứu đưa sang Châu/Trâu Quỳ.
Dưng mà bác Sao Hồng cứ chiều con quá. Như tui, thuộc diện gà lên chuồng thì mình cũng “hai xoa một đập” mà lên giường, thành ra con tui có hỏi vậy thì tui xáng cho nó một cái tát tai rùi bắt chước bọ Lập mà rằng: “ Hỏi khó thế thì đ. ai mà trả lời dược.” Còn hỏi khó nữa như cô ĐBN hỏi thì ông cứ dí vào giả nhời.
He he…. trẻ con bi chừ chớ có dại mà ra đòn với chúng ! Nó lôi “Children Rights” của LHQ ra thì rách việc lắm !
Thanks !
mai vũ @
Kể chuyện cái ti giả mà được 2 cái ti thật của NTL@ , lời thật ,sướng nhé!.
Bác SaoHồng@ ơi , trẻ con hỏi mà người lớn không trả lời thì không được ;mà không trả lời thì trẻ con cứ hỏi mãi , biết làm sao bây giờ?
Mà khi người lớn hỏi thì ai sẽ trả lời ?Hay là tự …..?
Tại sao bây giờ phải tổ chức nhiều lễ hội và rất nhiều ngày kỹ niệm như thế ? Ta giàu lên nhiều chăng?Du khách đến nước ta nhiều quá nếu không tổ chức cái gì đó cho họ vui chơi ,sợ họ sẽ bỏ đi chăng?Thanh niên bây giờ không có chổ giải trí hay tụ tập đua xe , hút chích ,nhậu nhẹt ? Đám sinh viên , công nhân không có chổ chơi sẽ tụ tập biểu tình chăng?…
Thu nhập bình quân đầu người trên 1000usd đã gọi là giàu có chưa?Mà có ai thống kê dùm những người VN có mức lương trên 10triệu vnđ là bao nhiêu phần trăm chưa?
Đất nước Singapore chỉ bằng tp.HCM mà mỗi năm số lượng du khách trên 8 triệu người , riêng Paris của nước Pháp bình quân mỗi năm đón khoảng 60 triệu du khách . Cả VN mỗi năm đón hơn 6 triệu du khách có nhiều không?
Lễ hội và những ngày kỹ niệm là cần thiết để dạy dỗ cho những thế hệ người VN trẻ biết và nhớ về quá khứ hào hùng chống ngoại xâm của tiền nhân , nhớ công ơn của tổ tiên đã có công dựng nước giữ nước và mở cỏi , nhưng tổ chức những lễ hội vì những mục đích riêng tư có lợi cho một nhóm thiểu số thì có nên?. Bao nhiêu người dân lảnh lương dưới 10 triệu sẽ có đủ điều kiện tham gia những cái lễ hội đó?
Và tiền ở đâu để tổ chức hàng nghìn lễ hội đó và hàng vạn những ngày kỹ niệm đó?( Đà Nẳng còn bắn cả pháo hoa vào ngày 29-03 kỹ niệm giải phóng ĐN và còn nói sẽ tiếp tục như thế ;Bắn từ tiền của ai ? )
Tại sao phải xây chùa Bái Đính to như thế ? Tiền của ai bỏ ra xây ? Tại sao phải cấp đất cho khu sinh thái của khu vực chùa Bái Đính rộng như vậy( hơn 2.000ha)? Và chùa ở khu Đại Nam ( Bình Dương ) cũng tương tự như vậy ? Chùa là của bá tánh đóng góp dựng nên , nếu cấp cho Bái Đính và Đại Nam thì tại sao không cấp cho những chùa khác? Tại sao không ai bảo vệ những tu sĩ theo phái Làng Mai tại ngôi chùa ở Bảo Lộc khi họ bị đám côn đồ khống chế và phá không cho tu hành phải giải tán ?
Tại sao?Tại sao? và tại sao?
Xin lỗi cứ miên man để bác Sao Hồng nghe ù cả tai . Nhưng vẫn còn ấm ức và còn muốn hỏi tại sao ? Kính bác chúc bác ngày cuối tuần vui nhiều.
Ù cả tai thiệt ! Ước chi mình hỏi mà được thưởng như… “cháu” Mai Vũ !
He he…
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một Mẹ thôi!
Quê hương là quê cha, đất tổ
Mẹ là biểu tương cho tất cả những gì yêu thương nhất trên đời. Ở Việt Nam ta còn nặng tính “ủy ban mặt trận tổ quốc ” nên phải thêm cha, thêm ông, thêm bà, thêm cố, tổ…của ông Tổ Hùng Vương! Căn bệnh “Ủy ban mặt trận…” biết đến khi nào … cho cháu con nhờ ?
Không biết Thánh Gióng hay Phạm Tuân là người Việt nam đầu tiên bay vào vũ trụ các bác nhỉ? Trẻ con nó hỏi phải trả lời sao đây?
Thánh Gióng chứ !
Bác PT chỉ là đi ké chứ có tự bay vút lên được như ông Gióng đâu. Ông Gióng là oai nhất !
Chỉ có chi tiết về cây gậy sắt của ông là đáng bàn, Có thể kỹ thuật luyện kim ngày xưa hơi kém hoặc do đúc vội nên cây roi của ông gãy nửa chừng ( lại béo bọn ve chai, phế liệu ), nên ông phải dùng cả bụi tre đập vào lũ giặc thay gậy sắt, vẫn thắng giặc như thường !
Nay truyền thống dùng tre thay sắt của ông được vận dụng sáng tạo vào bê tông bởi một số con cháu ông Gióng đấy, vậy mà người ta nỡ mang ra bêu dương, kỷ luật mấy vị ấy, thật oan, oan quá thể.
Và…ông tổ của “chúng ta” đã sinh ra Darwin, nuôi mãi nuôi mãi, cho “Đạc-uyn” đi khắp nơi trên thế giới…để học khôn.
và ông tổ của loài người là… giọt nước !
Sản vật tinh hoa ngàn năm văn hiến nhường kia mà để cho mấy ông thợ cày chặt to, kho mặn thế này mang dâng cung tiến…Ôi! Chẳng cứ tiền nhân xưa mà ngay lớp hậu sinh thời nay cũng đều… khó nuốt!
Thưa các bác trong chiếu rượu,
sau vài ngày suy nghĩ , tôi thấy việc có nhiều Tổ là bình thường , vì tộc Việt ta thì cứ mỗi 5 đời là một ông tổ, Cụ đầu tiên gọi là Tiền Hiền, sau đó gọi là cụ Tổ 5 đời, 6 đời, …..
Như vậy ở quê tôi người ta cũng xây nhiều nhà thờ rứa, tôi xây nhà thờ cụ Tổ 5 đời, ông anh nhánh trên xây nhà thờ cụ Tổ 6 đời,…..
Vậy hiện nay thì chúng ta phải ủng hộ phương án xây thật nhiều nơi quốc Tổ, việc này hết sức ý nghĩa, vì chúng ta nhân đó được nghỉ thêm nhiều ngày, các nhà thầu có thêm việc làm, kéo theo ngành làm hương nhang phát triển, lại thêm lợi ích cho bà con các tỉnh ai cũng có nhà thờ quốc Tổ không phải đi xa,…
Quan trọng là nếu có mất đất cho anh em xa thì vẫn còn đâu đó một nhà thờ Tổ cho dân hàng năm dâng hương chớ ! ( huhuhu )
Ối Bác Trà, có mối nào xây mới, trùng tu…thậm chí là làm hàng rào cho các di tích ấy thì cho em xin nhé ! Bảo đảm sẽ thi công với tất cả tấm lòng !
Quê em cũng vậy ! Thời trước chiến tranh, quê em có đình làng, có nhà thờ làng chung và mộ tổ riêng các dòng họ, có miếu thờ… có cái bom làm sập (miếu thờ) còn nha fthờ chung của làng, đình làng thì bom đạn chưa kịp phá các cán bộ xã đã bắt tháo kẻo “làm mục tiêu” cho máy bay. Họ lấy gỗ từ rầm, xà, cột kèo (toàn gỗ tốt) làm hầm, lót đường cho xe qua… nơi thờ tự bỏ bê hàng mấy chục năm… bây giờ khi có của ăn của để, bà con góp tiền làm lại thì rừng bị phá hết, toàn làm bằng ciment bê tông sơn sơn quét quét nó giả giả thế nào ấy …!
Ô hay, tại sao SH không nhắc gì đền ngày giỗ Tổ ông nữa nhỉ. Ngày giỗ Kinh Dương Vương mà theo truyền thuyết thì KDV sinh ra Lạc Long Quân cơ mà. Ông lấy con gái vua hồ Động Đình tên là Thần Long, sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân. Nếu gọi LLQ là Tổ Bố thì KDV phải là Tổ ông. Không có lý gì làm Quốc giỗ Tổ con, Tổ bố mà không làm quốc giỗ Tổ ông. BMCT xin đề xuất ngày 04/3 ta là ngày Quốc giỗ Tổ ông và đề nghị Quốc hội thông qua để cho bà con nghỉ thêm ngày nữa mà đi dâng hương.
ơ thế ai đẻ ra Mr KDV nhỉ ?
Băn khoăn quá…!
Cứ truy tìm… tổ như rứa thì thờ cúng tổ rất đơn giãn bác ạ. Ông tổ mình lúc đó là… giọt nước ! Gọi là Nhân loại… Tổ !
He he….
các bac nói vạychứ khai thác rồi của một đồng công một lạng thì dân tây nguyên chia nhau ăn hã he ,he
Pingback: Nước mình có mấy…. ông Tổ? : talawas blog
Chào Bọ: Cảm ơn Bọ, KD sẽ chuyển ý kiến rất đúng của Bọ tới Tòa soạn và Ban Văn Hóa của VNN về vấn đề này.
Thưa chị,
Chị nghĩ sao về việc gần đây trên Net người ta phản đối quá nhiều những lễ hội quá nhiều tốn kém trong khi đất nước còn quá ngheò, còn quá nhiều người dân không đủ cơm ăn, áo mặc (nhiều nơi vẫn còn đói như TV thỉnh thoảng vẫn chiếu), thiếu trường học , bệnh viện ? Những người làm báo như các chị có thấy đây là bệnh hình thức, háo danh và trên hết là thói vô cảm, vô tâm ?
Owh ! Để chi hàng ngàn tỷ cho những trò này thì người ta sẽ giở những câu nghe rất bùi ta rằng : “để nhớ ơn cội nguồn”, để câu khách du lịch, để kỷ niệm dịp này dịp kia… Ôi thôi, một trăm ngàn lý do nhưng người ta không nói lý do thực là để kiếm chác, để có việc cho những người không biểt làm gì, để những kẻ nghĩ ra, đề xuất những dự án có thêm thành tích khi kể đầu công việc.
Hãy lắng nghe lời các em nhỏ nghèo than không đủ cơm ăn, không được đi học… các nhà báo ạ.
Nói ra thì bảo phản động, nhưng chính những người cứ kêu gọi học theo đạo đức HCM lại đồng loã với những thứ lãng phí vào hàng khủng như thế thì ai tin lời họ ? Giá như đất nước giàu bằng các nước khác thì ta làm gì không sao nhưng đã nghèo mà còn đua đòi…
Sao sâu mọt ở VN có nhiều chủng loại quá thế này ?
Chào Kim Dung
Nếu Kim Dung là người được quyền chuyển ý kiến lên những người có trách nhiệm góp ý, tham mưu cho Nhà Nước, thì BSD rất mừng là Kim Dung có ghé qua Chiếu Rượu này, có nghe ý kiến mọi người.
Chắc lọc ý kiến về xã hội hiện tại từ chiếu rượu này, bỏ qua cách thể hiện ý kiến do bức xúc hoặc do tính cách của từng người, BSD thấy nội dung các ý kiến phần nhiều là đúng với thực tế, có thể là một trong những luồng thông tin tham khảo có ích giúp hoạch định cho sự phát triễn của đất nước!
BSD có thể lấy ra nhiều ví dụ, chẳng hạn thay vì nhà nước bỏ tiền ra quá nhiều cho việc lễ hội, với lý do cho người dân tham gia hưởng ứng nhớ về cội nguồn, nhưng thực ra chỉ có một số ít người dân đủ điều kiện kinh tế mới được tham dự, còn lại số đông dân nghèo thì không được như vậy. Vậy thì bao nhiêu tiền bỏ ra có hiệu quả không cho lễ hội? Có thể có người cho rằng BSD có ý bôi đen hoặc bi thảm hóa tình trạng của người dân, nhưng có sống ở nông thôn thì mới biết điều này. So với trước đây, người dân đã hết đói, không còn chạy ăn từng bữa nhưng thật sự họ còn khổ lắm, nên không thể so sánh với trước đây để nói là BSD bôi đen.
Chẳng hạn việc khác, thay vì chi quá mức cho đại lễ về việc sơn phết nhà cửa, …v..v..chúng ta có thể dùng một phần tiền đó xây dựng nhà vệ sinh công cộng tại Hà Nội (ý kiến của một còm nào đó trên chiếu rượu này) thì thiết thực biết mấy. Khách tham quan ấn tượng về cảnh quan Hà Nội hay ấn tượng về điều kiện, nhu cầu tối thiểu của người dân và của khách tham quan thực hiện nếp sống văn minh của mình khi đang ở Hà Nội không có? Cảnh có đẹp mấy, nhưng lòng người khó chịu, không vui thì cái cảnh đẹp ấy chẳng còn ý nghĩa gì,( ” người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”)
Và còn nhiều điều nữa…
Tóm lại chuyện chính trị người dân chúng tui không dám bàn, vì ngoài sự hiểu biết của người dân chúng tui, chỉ biết may nhờ rủi chịu, chúng tui chỉ góp ý nhà nước sử dụng đồng tiền thiết thực cho người dân chúng tui đỡ khổ hơn mà thôi, chứ đưng nhân danh chúng tui để rồi chúng tui vẫn khổ. Được như thế, người dân và con cháu chúng tui đội ơn nhà nước lắm, không thể nói hết nên lời!
Còm của tui thấy dài dòng, luộm thuộm, lủng củng, nhưng nội dung là vậy, khi đọc mong Kim Dung thông cảm.
Chúc Kim Dung khỏe!
BSD.
Vừa rồi, sau khi đọc lại bài chính và các còm bông đùa của mình cũng như của nhiều bọ khác em thấy rằng đã quá đà. Chúng ta có thể trách, phê phán “các nhà quản lý”, nền giáo dục,… hiện nay, chứ thực không nên viết và còm như vậy về tổ tiên dân tộc Việt
———
To tinkinhte, emxinh: KD đồng ý với quan niệm này. Chúng ta có thể phê phán, phản biện những việc làm dở xung quanh việc tổ chức lễ hội, nhưng đọc những ý kiến đùa cợt về lịch sử, tổ tiên, KD bỗng thấy buồn, thấy xót. Lịch sử có thể còn nhiều cái chưa xác minh được chính xác. Có khi lịch sử, dã sử cũng lẫn lộn. Đó là công việc của các nhà khoa học còn cần tiếp tục phải nghiên cứu, xem xét.
Nhưng nói như tinkinhte rất đúng
“Tin về sự hiển linh của tổ tiên dân tộc Việt là đức tin tự nhiên trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam, được truyền từ đời này qua đời khác, và mỗi người Viêt đều có trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ và truyền tiếp đức tin đó cho thế hệ kế tiếp. Ai đánh mất đức tin này hay hoang mang hoài nghi về nó là có lỗi với tổ tiên và con cháu.”
A, chị KD đây rồi !
Nghe lời nhắc nhở thì thấy chị KD luôn là một bà chị đầy lo lắng cho các ông anh, ông em và ông cháu trong chiếu. Rất chân tình.
Thế thì để em thưa với chị vài lời nhé.
Mấy hôm trước chị có theo dõi sự kiện cô Bích, người đang rất nổi lềnh phềnh bởi một sản phẩm chị tung ra sau một thời gian tiêu hóa hết tiếng Tây ở ta, tiếng Tây ở Tây và tiếng Ta ở Tây ?
Ở đâu không rõ chứ trên chiếu rượu này, cô Bích đã bị nghiêm khắc phê bình không khoan nhượng. Những vấn đề cô ấy đưa ra, chẳng biết có vô tình hay hữu ý, lại đúng vào dịp mùa giỗ Tổ Hùng Vương, cái ngày mà dân Việt ta ai đi đâu về đâu vẫn còn phải nhớ mà về.
Những lời lẽ dành cho bài viết của cô Bích đã rất đanh thép, nghiêm túc và hàm chứa một sự phẫn nộ. Sự phẫn nộ ấy nóng tới mức nếu có những kẻ định coi đây là phép thử lòng người dân Việt thì phải rụt tay lại và coi chừng. Qua đó cũng có thể yên tâm rằng dù có bị phủ mờ, đánh tráo hay lập lờ các khái niệm, những luận đề còn tranh cãi nhưng tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của đại đa số người Việt là không thể nghi ngờ.
Nay khi làn sóng phẫn nộ ấy đã đủ cao thì Bọ đưa ra bài nhàn đàm của anh SH. Và, hãy nhìn xem hình ảnh thật dễ thương kia chị Dung nhé : Trên bờ biển Nha Trang buổi “gió lộng chiều nay”, một người cha vốn rất hiểu biết và có trách nhiệm trong việc đào tạo thế hệ trẻ bỗng lúng túng trước một câu hỏi của cô con gái lên mười hỏi về cội nguồn dân tộc, về tổ tiên, giòng giống Lạc Hồng. Cố bé này từng được cha dắt tay đi thăm Nghĩa trang Trường Sơn, từng được ngủ dưới bóng tre già xanh một miền hò khoan Lệ Thủy. Câu hỏi của cháu bé ấy là câu hỏi của một thế hệ mai sau sẽ phải yêu quê hướng này thay chúng ta, phải tiếp nhận và bảo vệ đất nước này. Nó đang phải học cách yêu thương và tự trang bị vũ khí để bảo vệ những điều thiêng liêng ấy.
Người cha trầm tư. Ông xúc động và ngỡ ngàng khi nhận từ con một thông điệp của tương lai. Đứa con gái bé nhỏ ngày nào bỗng lớn hẳn lên. Ông chợt nhìn xuống và không nhớ là tự bao giờ, nó không để cho ông dắt tay nó bằng bàn tay khô đen nhăn nheo sạm gió nắng của mình, bàn tay người nông dân Quảng Bình, người bác sỹ – lính tình nguyện chiến trường Campuchea, người cán bộ ngành y đầy kinh nghiệm hôm nay, không phải bàn tay ấy đang cầm tay con dắt đi. Mà chính con bé đang tung tăng dắt ông đi bằng những bước chân tự tin, hướng về phía trước.
Nhìn con với đôi bím tóc tết khéo trên mái đấu xanh hồn nhiên, đôi mắt nhìn cha chờ đợi câu trả lời, ông bỗng cảm giác như mình là người có lỗi.
Đúng rồi, thời thơ ấu rồi thới niên thiếu ông sống ở quê nhà, một miền quê trù phú nhưng cũng là nơi đạn bom ác liệt nhất. Ác liệt đến mức nếu người ta chỉ bằng những suy tính lý trí, bằng sự cân đo hiện thực, bằng sự suy tính so sánh sòng phẳng thì không thể tồn tại, sống và lớn lên được. Ông và thế hệ đi trước, bạn bè…đã phải tựa vào lòng tin, vào cái hào hùng 4000 năm dòng giống Lạc Hồng với tầng tầng các chiến công chống ngoại xâm, tựa vào huyền sử lẫn chính sử để mơ một ngày vụt lớn lên bằng một phép màu, dùng chính những bụi tre hiền hòa ven dòng sông Nhật Lệ ấy bay lên trời làm chổi quét sạch những con chim sắt kẻ ác đang ngày đêm mang chết chóc, đau thương gieo vãi trên đất quê hương ông.
Nhưng, đó là chuyện ngày xưa, trong thời đại khoa học kỹ thuật, thời đại bùng nổ thông tin như hôm nay không thể một lần nữa nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, dân tộc, đồng bào bằng một món ăn nhào trộn, lẫn lộn… như ngày xưa. Thế hệ trẻ hôm nay cần phải hiểu rạch ròi hơn, có căn cứ hơn về Đất nước giàu và đẹp – giàu chỗ nào và đẹp ở điểm nào. Nhân dân anh hùng – Anh minh ở điểm nào và Oai hùng những khi nào…. Và chúng còn phải biết cái thiếu thốn, cái yếu kém, nhược điểm của mảnh đất, con người trên đất nước nó đang sống, lớn lên và sẽ đưa tay tiếp nhận từ Cha ông.
Một thế hệ trẻ của thời này sẽ không chấp nhận sự áp đặt mà không có sự giải thích. Có thể chỉ cho chúng các hồ ao chuôm liên tiếp ở vùng Hà Tây, Sóc sơn, núi Tản và bảo rằng đó là dấu chân ngựa sắt ông Gióng ngày nào. Có thể kể hàng giờ về tích Mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng, hay cho chúng xem các truyện tranh vẽ các dân tộc anh em Việt Nam người chui ra cái lỗ cháy trước thì da đen, chui ra sau thì da trắng hơn từ một quả bầu. Có thể truyện lại cho chúng tất cả, nhưng chính chúng sẽ là người bắt chúng ta phải chỉ rõ đâu là sự kiện lịch sử có thật, đâu là giai thoại, truyền thuyết để ca ngợi, để giáo dục và thậm chí là để răn đe.
Trong dân gian, các câu chuyện huyền thoại, các nhân vật nửa người thường, nửa thần thánh có cả kho. Những nhân vật ấy có khi là một ông Tổ một vùng đất, một nghề nghiệp, có khi chỉ là một cô gái chết đuối trôi sông hay một lão ăn mày lìa đời trong xó chợ. Tất cả họ tồn tại, sống cùng nhân dân hàng nhiều thế kỷ trong những câu chuyện kể, thậm chí còn có đền, miếu thờ cúng nhang đèn. Đời sống văn hóa trong dân gian là thế, một cây đa, một con đò chẳng phải đã từng có hồn, có số phận như những người thân của chúng ta, nhất là khi từ nơi đất khách giữa đêm khuya ta chợt nhớ về.
Vậy đó, nhưng một khi chính quyền hay các cơ quan chính quyền định làm cái việc cấp giấy khai sinh, chứng tử và văn bản hóa lý lịch của một nhân vật nào đó thì hoàn toàn phải cân nhắc kỹ lưỡng. Đảng, Nhà nước nhiều khi muốn chứng tỏ sự quan tâm đến tất cả các mặt trong đời sống văn hóa. Tốt thôi, thậm chí đó còn là nhiệm vụ. Nhưng chúng ta đã không ít lần thấy rằng cứ nhà nước nhúng tay vào việc gì thì bỗng có những biến tướng, những biến chứng “hết đường cứu”. Ấy là vì có tâm ( Tâm thật hay tâm với kinh phí còn tùy ) nhưng chưa có tầm. Tầm nhìn vào chiều sâu quá khứ, tầm hiểu biết về đời sống của những nhân vật, truyền thuyết bấy lâu tồn tại trong văn hóa, trong đời sống dân gian
thường ngày. Thế là xảy ra nhiều chuyện đáng buồn, đáng buồn cười, và với các vị thần linh ấy lắm khi là “Kính chẳng bõ phiền”.
Ngay như chuyện kéo ông Lạc Long Quân, với chữ Quân coi chừng đã là nghĩa “Vua” trong “Quân xử thần tử….” kéo ông ấy về thờ chung một khu với con, kiểu như “Cha mẹ theo con nhập khẩu thành phố” ngày nào là có phần sai. Theo tôi là sai. Đền Hùng thờ 18 đời vua Hùng, con số 18 ấy có chính xác hay chỉ là con số đẹp ?. Và, ông Lạc có họ với Rồng ( Long ) ấy có chính xác là cha đẻ của ông vua nằm trong ngôi mộ lớn ấy không mà mang cụ về đây ?
Tất cả những chuyện ấy không thể được giải trình bởi Hội đồng nhân dân, quyết định bởi một ông bà phó chủ tịch Tỉnh phụ trách văn xã theo kiểu ra một quyết định hành chính. Nó phải là một sự nghiền ngẫm nghiêm túc trên cơ sở những dữ liệu có thật và truyền thuyết dân gian, quyết định về thân phận nó phải nhìn thấu đáo về vị trí nó đang có trong lòng dân và dù là Đảng hay Nhà nước thì cũng chỉ nên có những hỗ trợ để vị trí ấy tồn tại trường tồn trong đời sống, trong nên tảng văn hóa dân gian của dân tộc.
Tứ góc nhìn ấy mới thấy rằng đã rất nhiều trường hợp, các vị lãnh đạo cao cấp của chúng ta ngộ nhận rằng các vị thần linh kia sinh thời là con dân thì nay cũng phải là con dân dưới quyền các vị ấy, còn vị nào trước là quan, vua thì được coi như là người tiền nhiệm, đối xử khác hơn. Như thế có phải là một thái độ đúng đắn với lịch sử, với văn hóa không ?
Một dạo dòng xe từ trung ương đổ dồn về Yên Tử.
Một thời là chùa Hương.
Và nay là cô Kếu Bái Đính….
Từ một câu hỏi của con trẻ, một người cha đã phải trăn trở mà mang vấn đề lên chiếu rượu mong được vỡ vàng. Còn chúng ta hãy xem những câu hỏi lớn lao, no1nhg bỏng vế các vấn đề văn hóa, lối sống, phong tập tục…đã được trả lời như thế nào từ những người cũng là cha, là mẹ, là phụ mẫu chi dân.
Còn, một số anh em ở đây có bàn tán theo hướng trào phúng về các vị đáng kinh kia cũng đừng trách họ chị ạ. Nó chẳng khác gì một ngày kia vui vẻ, ta trêu một đứa con rằng ngày xưa mẹ nhặt con ở bãi rác đấy. Và, khi nó mếu máo ôm chầm lấy ta để tìm câu trả lời đích thực, ta cũng vòng tay ôm lấy nó bằng một tấm lòng bao la của cha mẹ, cao như núi và ngọt lành như nước suối nguồn.
Thế nhé, chị Kim Dung.
Viết hay quá Dong ơi!
Cái áo “còm” đã trở nên quá chật đối với bài viết này.
Cám ơn Dong!
Cảm ơn bác Dong, đọc bài viết của bác, BSD xúc động!
Chúc bác! Chúc bác Khỏe!
BSD.
Với tất cả lòng kính trọng Bọ Lập cùng các Bọ trên chiếu rượu này, em xin có vài ý kiến ngắn như sau:
Thứ nhất, Không nên đồng nhất tổ tiên với các việc làm càn rỡ , sai quấy của một số người có chức có quyền hiện nay.
Thứ 2, Người lớn phải có trách nhiệm truyền cho con trẻ những giá trị thiêng liêng về tổ tiên dân tộc chứ không nên làm con trẻ thêm hoang mang về tổ tiên dân tộc mình. Càng không nên phó mặc hình ảnh, đức tin, vận mệnh dân tộc cho “các nhà quản lý” như vậy.
Thứ 3, Tổ tiên dân tộc Việt cũng như nhiều dân tộc khác về bản chất là những giá trị thuộc phạm trù tinh thần mà thể hiện cụ thể của nó là đức tin tự nhiên được vun đắp, giáo dục, truyền từ đời này sang đời khác, cụ thể ở đây Tổ tiên dân tộc Việt có ở trong mỗi con tim VN dù ở bất cứ đâu trên thế giới là Vua Hùng ( duy nhất), còn Lạc Long Quân là thủy tổ chung của cả Bách Việt (mà VN chỉ là một phần trong Bách Việt). Đức tin về tổ tiên dân tộc cũng giống như đức tin trong các tôn giáo vậy, nó siêu nhiên và có siêu quyền năng hoàn toàn tự nhiên. Đức tin này được giới khoa học thừa nhận như một quyền năng siêu nhiên, nằm ngoài những hiểu biết hiện có của con người và khoa học chưa thể kiểm chứng được. Phân tích như vậy là để thấy rằng, dù có hoang đường đến đâu, dù không có một sách sử nào ghi lại, dù ngành khảo cổ có gán ghép thời kỳ này ứng với thời kỳ văn hóa Đông Sơn (dẫn đến sự vô lý khi 18 đời Vua Hùng tồn tại trong khoảng hơn 2000 năm) thì Đức tin về tổ tiên dân tộc Việt duy nhất là Vua Hùng cũng không có gì thay đổi trong hàng ngàn năm nay.
Thứ 4, Nếu các bọ không tin vào truyền thuyết, huyền sử,… mà chỉ tin vào những gì có thể kiểm chứng được thì chỉ có thể chọn Triệu Đà là tổ tiên của người Việt Nam thôi. Nhưng cha ông chúng ta không chọn Triệu Đà đâu nhé. Trong tất cả các sách cổ về lịch sử VN do người Việt viết luôn có các phần, chương ghi các truyền thuyết về thời kỳ vua Hùng, Âu Lạc ( không kiểm chứng được) trước thời kỳ Triệu Đà ( có kiểm chứng được). Phải chăng cha ông chúng ta đã nuôi dưỡng, truyền lại những giá trị về Tổ tiên dân tộc Việt từ ngàn đời để đến ngày nay chúng ta vẫn là dân tộc Việt có quốc gia độc lập. Vậy tại sao hôm nay ta lại hoang mang đặt câu hỏi nghi ngờ về tổ tiên mình? Tại sao lại truyền cái hoang mang, nghi ngờ đó cho con cháu ? Tại sao lại phó mặc những giá trị được hun đúc hàng ngàn năm cho những kẻ phá hoại?
Vài nhời lỗ mỗ, nếu có gì không phải mong các bọ cứ thẳng thắn chỉ giáo.
Đồng ý với tinkinhte.
“Bản tin” rất đầy đủ, có lập luận khoa học, chính xác.
Xin bổ khuyết: Câu “Không nên đồng nhất tổ tiên với các việc làm càn rỡ , sai quấy của một số người có chức có quyền hiện nay.” viết thành “Không nên đồng nhất tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, mà đỉnh cao là giỗ Tổ với các việc làm càn rỡ , sai quấy của một số người có chức có quyền hiện nay.”
Thứ 5, con người Việt Nam sẽ sống bằng gì nếu thiếu đức tin, niềm tin vào sự trường tồn của dân tộc, vào di sản của tổ tiên, dù đó là di sản tinh thần.
Cảm ơn bác đã bổ khuyết. Cách diễn đạt của em nhiều lúc là rất lộn xộn, nghĩ gì là viết ra luôn. Em sẽ cố gắng học cách diễn đạt tốt hơn trong thời gian tới.
Kính bác.
Chào Bọ và các bác:
To em xinh: Lê Tiến Thọ nguyên là một diễn viên- nghệ sĩ tuồng rất giỏi, có tiếng, là NSUT, rồi NSND, Giám đốc Nhà hát Tuồng, hiện làm Thứ trưởng Bộ VH- TT- DLich. Mỗi lần có giỗ Tổ Hùng Vương, ông Thọ thường là người đọc Văn tế.
KD ạ, vấn đề này cũng nên đưa ra thảo luận trên vietmanet, không nên loạn thờ ông tổ, nên thờ ông tổ thực, còn những ông tổ huyền sử thì không nên
Em cảm ơn nhà báo, em khẳng định bác là 1 nhà báo cực kì nghiêm túc trong công việc
Dẹp bớt lễ hội đi!
Nhân 1.000 năm Thăng Long, người ta bày vẽ ra cả 1.000 lễ hội lăng nhăng, vô bổ. Thử tính xem. mỗi lễ hội tốn kém bao nhiều thời giờ, tiền bạc của nhà nước, của nhân dân? Nếu không muốn nói đến mục đích sâu xa: ru ngủ người dân quên đi thực tại còn quá nhiều bức xúc, nhức nhối chính trị, kinh tế, xã hội..như thời thực dân Pháp đã từng làm. Nếu với thời gian ấy, tiền bạc ấy, đầu tư cho bệnh viện bớt quá tải, lạc hậu, trường học bớt nghèo nàn, lương giáo viên đỡ còm, đầu tư vào đường sá, cầu cống…để phát triển kinh tế xã hội thực sự, khỏi phải ngửa tay vay ODA dài dài, có phải con cháu các vua Hùng đỡ thẹn với thiên hạ không? Hở Bọ Lập?
BSD tui là dân thường, cũng ước mong đơn giản là những người có trách nhiệm với đất nước nghĩ một cách thiết thực, đúng đắn được như bác thôi, là dân thường chúng tui bớt vất vả, lam lũ, đội ơn rất nhiều rồi!
Chúng tui chỉ mong có vậy, chưa dám mong điều gì cao xa, nhưng sao thấy khó quá! Chỉ mong sao ngày giỗ ông bà cha mẹ mình có được một mâm lễ đàng hoàng tươm tất cho các bậc sinh thành khỏi tủi thân, cho chúng tui khỏi thẹn với họ hàng làng xóm là quí lắm rồi!
Ai cũng nghĩ như bác, nhất là những người có trách nhiệm, thì chúng tui đội ơn lắm lắm!
Chúng tui chỉ mong điều này không phải là sự thật: “Nếu không muốn nói đến mục đích sâu xa: ru ngủ người dân quên đi thực tại còn quá nhiều bức xúc, nhức nhối chính trị, kinh tế, xã hội..như thời thực dân Pháp đã từng làm.” Vì nếu là sự thật như vậy thì tội cho con cháu chúng tui lắm lắm, tụi nhỏ nào có tội tình gì đâu!
Chúc bác khỏe!
BSD.
gia lĩnh rất cảm nhiếu danchoavà cảm ơn chiếu riệu có ở chiếu riệu mới biết quê choa thông cổ giỏi kim
Pingback: Top Posts — WordPress.com
…”Phải chăng lời thách cưới của vua Hùng hơn 2000 năm trước đã có lời giải?”. Câu ni là của của Đức Chính đăng ở Vietnamnet hẳn hoi đấy nghe, mời bà con qua coi. Hu hu hu, đất nước tự dưng bị mất 2 ngàn năm lịch sử chỉ vì một bài viết cúa cẩu thả!
* Đức Chính
Xin lỗi các bác, do quá bức xúc nên viết sai chính tả câu cuối, phải là :…chỉ vì một bài viết quá cẩu thả! Mong các bác thông cảm!
Theo sách vở cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và kết thúc vào 258 TCN. Tổng cộng 2622 năm. Nếu chia ra 18 đời thì mỗi một đời vua kéo dài trung bình 146 năm. Một chuyện hết sức hoang đường, nếu nhớ: (i) Các triều đại vua chúa bên Tàu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo dài trung bình khoảng 10-20 năm, như Châu Trang Vương (696-682 TCN), 14 năm chẳng hạn; và (ii) Đời sống con người thời đó trung bình chỉ kéo dài khoảng 50 năm. Hơn thời sống trong hang động chừng 20 năm.
Thi mến!
Thấy việc không đúng, ảnh hưởng đến những gì liên quan đến xã hội, trong đó có cá nhân mình đang sống, mà không có quyền bức xúc e là khó. Tuy nhiên, với thời buổi nhiểu nhương, thượng vàng hạ cám như thế này, cái gì cũng bức xúc hết thì dễ tổn thọ lắm!
Thôi thì, phải thích nghi để tồn tại như là một quy luật sinh tồn vậy! Chẳng hạn việc trên, hơn 2000 năm, BSD nghĩ, có thể là 2001 năm…3000năm…4000năm…2000 + n(năm), như vậy muốn nghĩ bao nhiêu năm cũng được, miễn sao mình khỏi bức xúc, khỏi tổn thọ là được!
Hoặc: Nếu chia ra 18 đời thì mỗi một đời vua kéo dài trung bình 146 năm, BSD nghĩ như ri, có thể các nhà viết sử ngày xưa dùng từ đời với nghĩa như từ thế hệ ngày nay, anh truyền cho em, em truyền cho em…hoặc những người anh em họ hàng có cùng huyết thống…và khi truyền đến bậc con là tính một đời, như thế thì 146năm hay hơn nữa cũng hợp lý( không cần điều đó có đúng sự thật hay không), nghĩ thế thấy đỡ bức xúc hơn!
Họ cẩu thả sao kệ họ, cố gắng giữ sao mình đừng cẩu thả như họ đã khó rồi Thi ạ. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, làm được điều ông bà dạy để làm Người, thấy đơn giản vậy nhưng không dễ dàng chút nào!
Còn trên chiếu rượu này, có BSD, chẳng ai lấy việc sai chính tả làm điều, vì ai cũng có ít nhất một đôi lần sai, Thi không ngại!
Thật ra, thấy những điều sai trái mà không thấy khó chịu, không bị dị ứng thì mới đáng sợ. Tuy nhiên cứ nghĩ chuyện đó của người ta, không phải của mình cho nó khỏe, cho nó vui vẻ nghe Thi.
Chúc Thi khỏe!
BSD.
LẠI CHUYỆN CHÚ HÙNG
Hôm qua cả nhà cháu đi Đền Hùng, mệt ơi là mệt. Chú Hùng mượn xe cơ quan nhà mình đổ xăng, chú í bảo thế. Lái xe cũng của nhà trồng được, khỏi thuê luôn. Mọi việc trên Đền Hùng cháu lên mạng thấy báo nào cũng đưa, vậy nên cháu chỉ kể chuyện nhà cháu cho các chú các bác nghe thôi.
Nói tóm lại (cháu bắt chước chú Hùng “nói tóm lại” gần nhuyễn rồi) là nhà cháu đi cả nhà, em Vit thì ở nhà với bà nội và chị Sen. Mới sáng sớm chưa kịp ăn gì đã đi rồi, trời mưa và hơi lạnh nữa chứ, bố cháu bảo lên xe ngủ tiếp. Thế mà lên xe cũng không ai chịu ngủ. Cô Hà lúc đầu bảo không đi vì sợ động thai nhưng chú Hùng nói nhỏ gì đó thì cô lại lên xe. Sau khi ăn phở sáng rất dở ở Vĩnh Phúc thì đi tiếp và mọi người nói chuyện nhiều quá làm cháu không ngủ được.
Nói tóm lại không biết là từ chuyện gì mà ông cháu tiếp vào theo “Trước đây tao nhớ nhà nào hiếm muộn cứ lên Đền Hùng cầu tự là được”. Bố cháu tiếp lời “Hùng Hà chuyến này một công đôi việc lãi to nhá”. Chú Hùng vừa đánh tay lái tránh một cái ổ trâu trên đường (chú ấy vẫn thường tự hào “ta đây là tay lái lụa”) vừa trả lời bố cháu: -“Có mà dở hơi, bụng phưỡn ra rồi còn cầu cái gì!”. Cháu liếc lên ghế trên thấy cô Hà lườm chú Hùng một cái rõ dài. Bố cháu lại tiếp, không hiểu sao hôm nay bố cháu lắm lời hơn mọi ngày, hay được bữa đi chơi xa nên phấn khích lên, bố cháu nói “Thì cầu con trai. Vua Hùng chẳng cần khoa học y học gì cũng tù tì liền một trăm thằng”. Giọng chú Hùng có vẻ không vui: -“Lại dở hơi tiếp. Hôm nọ đi soi dịch vụ thấy họ nói có ngón tay út, thế mà về nhà buồn suốt cả tuần đấy. Anh cứ xui cầu trai cầu đực nữa vào”. Ông cháu ngồi im lắng nghe có vẻ chăm chú rồi quay sang bố cháu: “Soi thấy ngón út sao nó lại buồn?”. Bố cháu nói vừa đủ ông nghe “Ngón út là con trai. Chúng nó lại mong có nếp có tẻ”.
Ông cháu thở ra một cái thật dài, mà không hiểu sao dạo này cháu thấy ông cháu rất hay thở dài, ông cháu nói: “Con nào chả là con. Mà tao thấy y học bây giờ hiện đại thật, soi mỗi cái ngón tay út của thai nhi mà biết được là gái hay trai thì thánh thật!”. Nghe đến đó, cô Hà đang ngồi im vì tức chú Hùng mà cũng phì cười. Tóm lại thì cháu chẳng hiểu vì sao mọi người lại cười.
Dì Thu Lê mô rùi, huhu
Với bác Mèo Hen thì dì Thu Lê thưởng cái khác cơ…! he he
Cô Hà sinh rồi bác Mèo ạ, cô sinh bé gái, thế là nhà chú Hùng có cả nếp lẫn tẻ giống nhà bác VTN.
Bé gái xinh xẻo, bụ bẫm nhưng đỉnh đầu có chiếc sẹo nhẵn thín bằng đồng xu, bố chú Hùng xem xong, bẩu: sẹo CỐ đây mà, nghe thế chú Hùng xấu hổ chạy ngay ra ngoài còn cô Hà thì thẹn thùng giả vờ ngủ
LẠI CHUYỆN CHÚ HÙNG.
Cháu chào chú Mèo Hen.
Lâu lắm rồi cả nhà cháu không thấy chú đến chơi. Chắc chú bận, ông cháu bảo thế. Nhưng cháu bảo không phải, bởi vì con vẫn thấy chú Mèo Hen đi uống rượu bên nhà bác Quang Lập. Ông cháu mắng cháu: Mai Vũ trẻ con biết gì, sức khỏe chú Mèo hen như thế uống rượu thế đếch nào được.
Cả nhà cháu vẫn nhớ như in những cái hình ảnh rất đáng yêu của chú đấy. Mỗi khi chú nói được vài câu là chú lại nghỉ để lấy hơi, chú nhớ không? Những lúc đó miệng chú chụm lại, rồi chú hít hơi vào trong phổi nghe như tiếng sáo của người da đỏ í. Hay không chịu được, còn hay hơn cả bản nhạc EL CONDOR PASA bên nhà anh Zhi vago, chẳng lần nào chú hít giống lần nào, như một bản nhạc cho đến khi không nói nữa, rồi chú về thì bản nhạc cũng chấm dứt.
Chú không để ý đấy thôi, chứ cô Hà mí em Vít cháu thì thích chú “thổi sáo” bằng mồm lắm. Nhất là em Vít cháu í, cứ thấy chú thổi sáo là em í bỏ cả ti mẹ rồi quay sang nhìn chú cười toe toét. Trông yêu ơi là yêu.
Thế có khi nào Mai Vũ thấy chú Mèo Hen “thổi sáo” với cái núm… bụ chưa ?
he he….
Bác SH@, liên quan đến tự thiêu, gửi bác link ni, bác tham khảo
Ngọn đuốc này góp phần đốt cháy “triều đại” họ nhà Ngô những năm đầu 1960s phải không ?
Vừa rồi, sau khi đọc lại bài chính và các còm bông đùa của mình cũng như của nhiều bọ khác em thấy rằng đã quá đà. Chúng ta có thể trách, phê phán “các nhà quản lý”, nền giáo dục,… hiện nay, chứ thực không nên viết và còm như vậy về tổ tiên dân tộc Việt.
Tin về sự hiển linh của tổ tiên dân tộc Việt là đức tin tự nhiên trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam, được truyền từ đời này qua đời khác, và mỗi người Viêt đều có trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ và truyền tiếp đức tin đó cho thế hệ kế tiếp. Ai đánh mất đức tin này hay hoang mang hoài nghi về nó là có lỗi với tổ tiên và con cháu.
Thành tâm hối hận kính xin tổ tiên tha thứ cho lỗi lầm của con đã mắc phải.
Bọ nào thấy có lỗi thì cũng kính xin tổ tiên tha thứ cho đi nhé.
Dạ em cũng vậy, con thành tâm hối hận kính xin tổ tiên tha thứ cho lỗi lầm của con đã mắc phải.
VIỆT NAM ƠI, MÌNH CÓ MẤY ÔNG TỔ ?
Thực ra có bác đã trả lời câu hỏi này nên ts chỉ góp thêm ý kiến. Nếu nói ông tổ của nước Văn Lang thì có vẻ là vua Hùng nhưng nếu nói ông tổ nước VN chúng ta đang sống thì lại là Hồ Chí Minh và tất nhiên còn nhiều ông tổ khác của Âu Lạc, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Việt nam…Ông tổ của Việt nam(không kể đuôi) chính là Nguyễn Ánh(Từ thời Gia Long bắt đầu có quốc hiệu Việt Nam. Ban đầu, Gia Long cho đổi quốc hiệu Đại Việt sang Nam Việt nhưng về sau, vì vua Gia Khánh nhà Thanh sợ lầm với nước Nam Việt của nhà Triệu mà lãnh thổ bao gồm cả Lưỡng Quảng nên đổi tên thành Việt Nam.)
Có lần tui nghe cụ Đinh xuân Lâm nói cụ Nguyễn đổng Chi nêu giả thuyết rằng Cụ Tổ Kinh Dương Vương của ta là người …Hà Tĩnh. Cụ chống gậy ra Bắc lấy thêm một bà vợ người Tày,… Tui nghi rằng cái tên Lộc Tục có liên quan đến nghề nuôi hươu truyền thống Hà tĩnh, nhưng không biết có liên quan gì tới người phía Tây có truyền thống đội mũ có sừng hươu nai mà nhà Chu gọi là Tây Nhung không, lại càng không biết có liên quan gì tới vụ tán hươu tán vượn thời nay không nữa.
Lịch sử có nhiều chuyện giống vậy, một người lên làm vua thì truy phong bố mẹ thành cụ nọ cụ kia. Chứ như cụ Kinh Dương vương thì chắc là cách gọi sau này. Vua của thời kỳ đó có thể như vua ‘lốp’, vua xe ben, cùng lắm là như vua Voi, vua Lửa trên Tây nguyên. Chỉ có thể là khi có cách liên kết bộ lạc rồi lập quốc, có luật chơi rõ ràng thì mới có Vua. Nhưng cũng cần lưu ý rằng thời ý mẫu hệ, có thể manh nha phụ quyền, nên các đời vua cũng chỉ là con cái của một dòng nào đấy, do một quý bà nắm thóp nên đừng bận tâm mỗi đời vua sống bao lâu. Nay có chuyện hỏi ta có mấy tổ cũng giống như trẻ hỏi con có mấy cụ kỵ. Tính ngược lên 4 đời đã là 16 cụ rồi đấy, thì cách ta 200 đời đã lên khỏang 5000 năm. Các bố cứ mũ 2 lên khắc biết cụ KDV có bao nhiêu cụ tổ. Bên ngòai đền Hùng đã có một cơ ngơi thờ Tổ Mẫu Âu Cơ mấy năm nay rồi, thì chuyện tổ tông chỉ là biểu tượng thời đọan. Nay đã có công bố 59% hệ gene của người TQ giống với người Phi châu. Cuộc truy đuổi này ắt sẽ dẫn đến kết luận Ta và Khách cùng một tổ, bà Lucie bên Ethiopie.
Thôi thì trước lạ sau quen, bao chuyện xa xưa óan thù bỏ ngoài chiếu rượu. Dô ! Tình thương mến thương ! Ha ha.
co phai bac Doan nam Sinh nghien cuu ve Trong Dong khong ?
Ông chú em được Ban Tổ chức lễ hội đưa vào ban hộ lễ, giữ chức Đông xướng.
Có lẽ các cụ từ tham gia vào ban tế là mệt nhất, vì phải phục vụ rất nhiều nghi thức. Ngày thường phục vụ khách thập phương đến lễ bái đã thấy mệt rồi, chứ ngày lễ, hội thì…
Như mọi năm rước kiệu lên đền Thượng, đám rước năm nay có kiệu bát cống, kiệu long đình, hai ông hiệu cờ cầm cờ nheo nhỏ chỉ huy, một ông đi trước, một ông theo sau kiệu. Lễ phục là áo võ sinh màu đen thêu rồng mây trước ngực. Trên hai vai mỗi ông gắn 4 lá cờ màu đỏ, đội mũ võ, chân quấn xà cạp, hia đen. Một ông hiệu trống mang trống khẩu giữ nhịp. Tám người vác chấp kích (bát bửu) đi trước kiệu, mắt nhìn phía trước, bước chậm rãi và nghiêm. Tám người vác cờ theo sau. Phía trong 2 hàng người chấp kích là phường bát âm, mặc áo the quần trắng, thắt lưng lụa xanh, đỏ, đầu đội khăn xếp đen. Kiệu có 2 lọng 2 bên. Mỗi ông hiệu trống, hiệu chiêng đều có lọng che. Trống, chiêng đánh 3 tiếng một đối đáp nhau. Người rước đi bước một. Cứ khoảng 15 phút lại đánh 3 hồi đổ dồn. Ông hiệu cờ phất đi, phất lại lá cờ theo nhịp chung. Ông hiệu trống vừa bồi trống vừa reo “hú… u” 3 lần. Tất cả đồng thanh “huy… huy…” hưởng ứng. Đi đầu đám rước thường là 2 anh thanh niên đi 2 bên vác biển nhỏ sơn son thếp vàng, một khắc chữ “hồi tỵ”, một khắc chữ “tĩnh túc” đẻ giữ an ninh, trật tự.
Đoàn người bỗng hò reo khi tới đền Hạ. Những người vác cờ xí chạy vòng quanh đền. Các cỗ kiệu chợt chuyển động nhanh, rập rình như có phép lạ, gọi là “kiệu bay”; “kiệu bay” là thánh vui, có ý nghĩa là điềm lành.
Trong lúc đó, khi tế lễ xong ở đền Thượng, có múa hát xoan thờ trình thánh, ông trùm phường xoan cùng chủ tế đứng trước hương án hát chúc bằng bài khẩn nguyện. Sau đó là một kép trẻ đeo trống nhỏ trước ngực ra làm trò giáo trống, giáo pháo. Kép xoan cũng có thể hát vài “quả cách” đoạn vui vui những lời cầu mong sung túc của nông gia xưa. Tiếp theo, bốn cô đào ra hát thờ nhang và dâng hương bằng giọng hát lề lối. Rồi đến những bài ca thánh thần kết thúc phần nghi lễ của Xoan.
Ở đền Hạ có hát ca trù, loại hát thờ trước cửa đình, mừng dâng thánh trong dịp hội làng.
Cuối buổi lễ, ông chú em mệt quá, thiu thiu ngủ bên góc chiếu. Trong chiêm bao, ông thấy lễ hội của người tiền sử trong những đêm lửa trại. Một chiếc trống đồng được treo thẳng đứng trên giá. Mặt trống ở phía trên; miệng trống loe, đặt trên một cái hố nông đào sẵn. Người ta dùng chày đâm thẳng xuống mặt trống đồng. Âm thanh phát ra từ hố, nghe âm vang như tiếng núi, tiếng rừng vọng lại. Thì ra đây là trò diễn “chàm thau” (đâm trống đồng). Biểu diễn đâm trống đồng có người làm cái, người làm con. Người cái cầm 2 dùi; con cầm một dùi. Cái đánh trước, con đánh sau một cách nhịp nhàng theo tiết tấu riêng, hợp với thân hình đong đưa, uyển chuyển của cái và con.
Góc kia của lễ hội là giã gạo trong cối gỗ hình thuyền dài, toàn là phụ nữ trình diễn, tay phải cầm chày tay trái cầm bó lúa, trở lúa đều nhịp chày.
Ông chú em ngó vào đám đấu vật, thấy cụ Tổ Hùng Vương uy nghi ngự trên đài gỗ xem các chàng trai Văn Lang quần thảo đua tài.
Bỗng đoàn người dạt ra, hú hét. Vòng người tản ra, để giữa vòng trơ lại ông chú em. Ông có cảm giác như con thú hoang xa lạ giữa bầy đàn, tổ tiên của ông.
Cụ Tổ Hùng Vương vẫy tay gọi mấy vị có vẻ là lạc hầu, lạc tướng lại gần. Tiếng hú hét của đoàn người ngày càng lớn, vang vọng núi rừng. Rồi giọng một người nói to: – Vua truyền cho kẻ dị nhân kia tiếp kiến.
Ông chú em tiến lại, cụ Tổ Hùng Vương trìu mến nhìn ông và nói: – Ta nghe sau mấy nghìn năm, con cháu ta sẽ bày ra đủ trò tiến cống mà thời ta không có. Ta tặng ngươi một cặp bánh chưng, bánh dày do hoàng tử Lang Liêu và thần dân trồng lúa của ta làm ra. Ngươi quay về bảo với những người kế nghiệp của ta, đồng bào con cháu ta đừng có bày biện lễ lạt lung tung, trái với đức tính của tổ tiên.
Nói xong, cụ Tổ Hùng Vương đạp cho ông chú một cái. Đến đây, ông chú em choàng tỉnh, hóa ra là giấc chiêm bao.
Ông ngạc nhiên thấy trong tay mình còn cầm cặp bánh chưng, bánh dày. Ngửng lên thấy ông hộ lễ chức Tây xướng đứng cạnh, lấy chân đá đá.
Ông Tây xướng bảo ông chú em:
– Ông ăn bánh chưng, bánh dày đi cho chắc dạ. Rồi mình đi nhắm chai rượu 4226 lít của Công ty AVINAA.
Nghe đến đây, ông chú em té xỉu. Hồi lâu mới tỉnh.
Bác Thao@. Chắc nhà bác bên bờ sông Thao [ đoạn sông Hồng chảy qua Phú thọ] nên bác đi lễ hội Đền Hùng nhiều nhỉ?
Có thế thì bác mới có cái còm rất chi tiết về Nghi lễ của lễ hội chứ. Em chỉ dám đi vào ngày thường, không đi vào Lễ hội.
Đến đền Hùng vào những ngày vắng vẻ, em thấy bước chân của mình đi trên mảnh đất đó bỗng trở nên thanh thoát, trong lòng thanh thản và nhẹ nhõm vô cùng.
Nhà tôi gần bến Trung Hà,
Quê yêu dấu của tướng bà Xuân Nương.
Gần quê đất Tổ Hùng Vương.
Xưa kia một dải Trưng Vương dựng cờ.
Ngàn xưa vọng đến bây giờ…
Dân Việt mình lúc nào chả mê…ăn giỗ. Các loại giỗ cũng vẫn thấy thiếu nên còn phải ăn giỗ…trẻ con. Thế kỷ 20 đã tiêu diệt được bệnh đậu mùa nên không còn…rỗ, thế là phải nghĩ ra các kiểu giỗ mới như các bác đã nói. Giỗ Tổ, cụ, kỵ, ông, bà…vẫn không đủ nên mới phải rủ nhau ra quán giỗ… nhau. Thôi thì con hơn cha là nhà có phúc…Không biết đến bao giờ có ngày giỗ….(tự đục bỏ)…
ts định thay áo nhưng có vẻ bị bọ nghi nên mặc áo cũ vậy!
Nếu bọ cho còm của ts lên thì xóa hộ 2 cái còm trước nhé!
Dân Việt mình lúc nào chả mê…ăn giỗ. Các loại giỗ cũng vẫn thấy thiếu nên còn phải ăn giỗ…trẻ con. Thế kỷ 20 đã tiêu diệt được bệnh đậu mùa nên không còn…rỗ, thế là phải nghĩ ra các kiểu giỗ mới như các bác đã nói. Giỗ Tổ, cụ, kỵ, ông, bà…vẫn không đủ nên mới phải rủ nhau ra quán giỗ… nhau. Thôi thì con hơn cha là nhà có phúc…Không biết đến bao giờ có ngày giỗ….(tự đục bỏ)…
ts định thay áo nhưng có vẻ bị bọ nghi nên mặc áo cũ vậy!
Dân Việt mình lúc nào chả mê…ăn giỗ. Các loại giỗ cũng vẫn thấy thiếu nên còn phải ăn giỗ…trẻ con. Thế kỷ 20 đã tiêu diệt được bệnh đậu mùa nên không còn…rỗ, thế là phải nghĩ ra các kiểu giỗ mới như các bác đã nói. Giỗ Tổ, cụ, kỵ, ông, bà…vẫn không đủ nên mới phải rủ nhau ra quán giỗ… nhau. Thôi thì con hơn cha là nhà có phúc…Không biết đến bao giờ có ngày giỗ….(tự đục bỏ)
Uổng bài sớ tế quá (răng gọi là chúc văn rứa hè?). Chắc ông Vũ Khiêu đau lắm khi phải cưỡng bút thêm vào các đoạn mà không một bậc lương văn thiện ý nào muốn thêm vào trong bài vở của mình.
qx
Gọi chính xác phải là TỤNG VĂN.
Nhân gian thường giản dị gọi là VĂN TẾ
Bài văn đọc(tùy) theo nghi thức tế lễ (có nhạc là chiên,trống)
Thi-Lễ-Nhạc,tập hợp.
Thanks bác Ngo Thu Le và hoangdung chia sẻ thêm về văn tế.
Còn “TỤNG” trong “TỤNG VĂN” là bác Ngo Thu Le gọi tên (rất chính xác) cho các đoạn verses (thuộc các tuyển tập kinh tự sướng, kinh thượng đội hạ đạp, kinh mị dân, kinh công nông, kinh nô lệ, vv…), mà bàn dân thiên hạ nghe suốt suồn suột từ bảy tám chục năm nay.
qx
To qx & Ngo Thu Le
CHÚC VĂN là bài văn viết,để đọc khi cúng tế nhằm cầu chúc Thần linh
đồng thời cầu nguyện và cầu xin cho gia chủ.
To Hoang Dung, qx. Những từ ngữ nầy rất nhiều lúc đồng nghĩa: tụng ca, tụng văn, kinh cúng cụ, khẩu hiệu… Nhiều lúc còn được hiểu theo nghĩa dân gian là “tự sướng”. (Có gì sai thì mong nhà ngôn ngữ học Hoàng Dũng lượng thứ)
Thanks bác hoangdung.
Giỗ Vua Hùng thì văn gì là đúng nhất? Bác có biết hay bác nào biết, hãy post lên chia sẻ. qx tui thấy hình như người ta dùng sớ tế hay văn tế trong lễ giỗ, hoặc lễ tế trời đất, tông giáo gì đó. Chúc văn thì nghe nói tới một đôi lần, nhưng không biết được dùng chính xác trong dịp nào, cầu mưa cầu nắng hay khai trương động thổ, cầu thăng quan tiến chức, cầu chế độ còn quài quài, vv…?
qx
To qx & Ngo Thu Le
Tui biết đại khái thôi,nhưng cũng xin mạn phép lạm bàn với các Bác đó mà.
Tửu nhập mà ngôn không xuất,thi không phải phép.Kinh các Bác nâng ly.
1.-CHÚC: Đọc lời cầu khấn
2.-TỤNG Đọc to tiếng (một bài văn)
CHÚC VĂN và TỤNG VĂN,đều nằm trong nghĩa chung là VĂN TẾ,là
tổng hợp Thi,Lễ,Nhạc,trong các cuộc lễ,đối với Thần linh(Trời,Phật,kể cả chúng sanh đã khuất núi )
Có thể nói thêm rằng,Văn Tế là loại Thơ xuôi,có vần điệu và cấu trúc riêng để diễn tả (sáng tác)tương tự gần như Phú hoặc Hát nói vậy.Sau đây là một bà mẫu:
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu
http://vietbao.vn/Van-hoa/Van-te-nghia-si-Can-Giuoc-Ngoi-den-thieng-trong-van-hoc/45155628/181/
Giỗ Vua Hùng thì văn gì là đúng nhất?
Bởi: qx ngày 25.04.2010
lúc 6:39 sáng
…
Tụng ! Kiểu như các thầy chùa đọc tụng kinh cầu siêu vậy !
Nhưng bây giờ, lễ Giổ tổ các vị “tụng” lâm râm coi chừng họ cầu lộc cầu tài cầu chức cho mình đấy nha !
Tiện thể, Bọ cũng xoá luôn hộ cái này.
Vn mình có nhiều tổ lắm. Nào là tổ cha nè, tổ mẹ nè, tổ mụ nội cha ,tổ mu nội mẹ, tổ bà, tổ bố, tổ con đĩ mẹ.. nhiều lắm nêu ra không xuể đâu. Nhung mấy thứ tổ này là tổ của các trự no cơm ấm cật làm những chuyện ruồi bu, kiến đậu như trên thôi. Chỉ có 1 ông Tổ… Quốc để mình cần phải quan tâm đến, bảo vệ đến thì lại không lo, lo đi làm những chuyện tào lao, xịt bộp.
“…Họa Trung Quốc ràng ràng trước mắt, tỉnh táo giùm hỡi các quan tham. Tổ quốc này là Tổ nước Nam, đừng biến nó trở thành tổ… cắt ( tắt cổ)…
Trích Hịch tướng sĩ…tượng của bọ chét
Em Vít nhà cháu hư lắm nhá, ba tuổi đầu rồi, nhớn tướng thế mà vẫn cứ đòi ngậm ti cô Hà khi ngủ.
Tám giờ tối, bà cháu vừa xếp quần áo vừa cằn nhằn: “Hư đấy! thằng bố nó ngày xưa tao cai từ hồi tuổi rưỡi”. Ông cháu lại bảo: “Chiều con lắm vào mai kia lớn chỉ tổ bấy người, báu gì”.
Liếc thằng Vít đang hì hụi ngồi bẻ đồ chơi trên giường, cô Hà thì thào bảo chú Hùng: “Tối nay ông chịu khó dỗ nó ngủ thử xem sao nhá, tôi chạy ù ra đầu phố mua cái ti giả đề phòng”. Chú Hùng gật đầu rồi thong thả leo lên giường nằm kềnh ngay bên cạnh thằng Vít bảo: “Nào anh Vũ có lên đây nằm nghe chuyện thánh Gióng không nào”. Nghe chú Hùng nói thế thằng Vít bỏ ngay đống đồ chơi ngọng nghịu kêu: “A.. a.. a… ánh óng ánh óng” rồi nằm ịch một cái ngay sát chú Hùng, tay đập đập xuống chiếu bảo: “Vú, Vú ằm ây ằm ây”. Chú Hùng e hèm một cái rồi bắt đầu kể chuyện: “Ngày xửa, ngày xưa ở một làng nọ…….”. Thằng Vít nằm nghe bố nó kể chuyện, hai mắt tròn thao láo nhìn lên trần nhà không chớp. Đến đoạn thánh Gióng mỗi bữa ăn hết mười nồi cơm, nó như chợt nhớ ra điều gì, nhổm dậy ngơ ngác hỏi “ẹ âu ẹ âu”. Chú Hùng lại kéo nó nằm xuống kể tiếp.
Ông cháu ngồi phòng ngoài thầm thì nói với bà cháu: “Chuyện con mèo con chó hồn nhiên, có thật thì không kể lại cứ kể chuyện truyền thuyết phù vân”. Bà cháu khẽ gắt: “Chuyện gì mà chả được, miễn là nó không đòi ngậm vú mẹ nó”. Ông cháu lại bảo: “Kể chuyện cho con trẻ thì phải là chuyện thực, mai kia lớn nó biết là chuyện vớ vẩn nó ỉa vào mặt”. Bà cháu bảo: “Thôi đi ông, vẽ chuyện! Lớn nó khắc biết”. Nằm trong phòng chú Hùng mà cháu nghe rõ tiếng ông cháu thở dài.
Chú Hùng kể hết chuyện Thánh Gióng sang chuyện Rùa thần Hồ Hoàn Kiếm rồi gần hết cả chuyện An dương vương mà thằng Vít vẫn cứ nhấp nhổm “ẹ âu, ẹ âu”. Phòng ngoài, cô Hà đi mua ti giả về vẫn không dám ho he, ngồi im thin thít cùng với bà cháu. Còn ông cháu thỉnh thoảng lại thấy thở dài. Đến lúc thằng Vít bắt đầu mếu máo rồi gào lên “ẹ ơi ẹ ơi” thì bà cháu sốt ruột quá nói to: “Thôi, thôi thôi! Vào với nó, để mai cai”. Cô Hà vừa lao vào phòng thì thằng Vít nhoài người ôm chầm lấy mẹ, khóc òa. Chú Hùng ngồi phắt dậy mặt đỏ phừng phực, mồ hôi nhễ nhại lảo đảo sang phòng ông bà vớ chai nước ngửa cổ tu một hơi. Ném cho chú Hùng cái quạt giấy, ông cháu bảo: “Tao đã nói rồi, đừng kể truyền thuyết cho trẻ”. Chú Hùng hỏi “Truyền thuyết thì sao bố?”. Ông cháu bảo: “Nó là thứ không có thật, là đồ giả chứ còn sao với giăng gì? Mai kia nó lớn, mày có muốn nó u mê không? muốn không”. Chú Hùng không nói gì bỏ ra ngoài đứng.
Từ buồng trong chợt tiếng thằng Vít khóc thét lên. Ông cháu, bà cháu, chú Hùng và cả cháu nữa cùng hốt hoảng nhảy bổ vào. Thằng Vít thì đang ưỡn người khóc ngằn ngặt còn cô Hà thì đang cố nhét cái ti giả vào mồm nó…. Ông cháu tựa lưng vào cửa thở hắt ra, rên rỉ: “Giời đất ơi! Chả hiểu chúng mày nghĩ sao. Truyền thuyết với cái ti giả thì có khác gì nhau đâu hở giời!”. Bà cháu giằng lấy thằng Vít bảo: “Thôi! Vít ra đây bà cho bú nhá! Thật của bà còn bằng vạn cái đồ giả kia nhể”
Ha ha ha… thú vị quá, mai vũ@ thật là kỳ tài tiếu lâm gia.
Chúc mai vũ@ cuối tuần vui nhộn nhé.
🙂
Cứ cho ngậm VÚ giả đến MAI là quen ngay mà!
Chuyện nầy dì cũng cho cháu điểm 10 và cũng thưởng như hôm bữa, nhưng đặc biệt là gấp đôi, được rờ cả hai bên… he he
Ha ha ha…Hu hu hu….
Chuyện của Mai Vũ làm bác phải cười ba hồi rồi lại khóc chín tiếng. Cười và khóc ngay cho chính cái phận mình, suốt một đời bập bềnh chìm nổi giữa mơ và thực, thực và mơ. Đời sống thì quăng quật cho nát nhừ, còn truyền thuyết thì lại gây mê mê hoặc hoặc. Cái ti giả bằng cao su, không một chút hơi ấm, không một giọt dinh dưỡng cũng chẳng có chút vị mặn ngọt gì; ấy thế mà cứ đời trước vứt cho đời sau ngậm rồi mút. Không no nê, chẳng bổ béo chỉ thấy mỗi đầy hơi!
Cảm ơn Mai Vũ rất rất rất nhiều nhá. Cháu đã giúp bác giật được cái ti giả ra khỏi mồm rồi đấy.
Phải thừa nhận một điều là nước ta thiếu rất nhiều thứ trong khi truyền thuyết lại hơi bị thừa!
Hấc…hấc…hấc…hấc…về sau còn chuyện này buồn cười lắm cơ nhưng, cháu kể các bác, các cô, các chú nghe cấm kể lại cho chú Hùng cháu nghe đấy nhá! Chú Hùng mà biết cháu kể chuyện này thế nào cháu cũng bị ăn tát.
Hôm qua í, cái lúc mà bà cháu giằng lấy em Vít để bế í…nhưng cuối cùng em í vẫn ôm chặt lấy cô Hà để khóc. Cô Hà thấy thế mới dỗ em Vít: “Ừ thôi thôi cho mẹ xin, cho mẹ xin. Đây mẹ đền Vít đây”. Vừa nói cô Hà vừa vạch áo cho em Vít bú. Chú Hùng thấy thế sán lại ngồi cạnh xem. Em Vít nức nở luống cuống bập ngay vào mút. Tự dưng chả hiểu sao vừa mới rúc vào em í lại nhè ngay ra khóc òa lên to hơn trước. Cô Hà luống cuống nhíu mày nghĩ nghĩ rồi bất ngờ túm tai chú Hùng dúi xuống đống chăn gối nghiến răng rít lên: “Giời ạ! Cái mồm này này! hay hút thuốc lá này! không chịu súc miệng gì cả này!… Có lấy ngay cho tôi cái khăn ướt để lau sạch mùi thuốc lá không thì bảo”….Ối giời ơi là giời! Cháu vọt ra ngoài bụm mồm cười tưởng ngất đi được. Cứ tưởng chú í hay kể chuyện truyền thuyết cho trẻ con nghe thì chú í phải thế nào, hóa ra là thế. Buồn cười quá, cười đau cả bụng.
Mà bà cháu bốc phét cũng tài thật đấy. Chú Hùng thế mà bà cháu còn tự hào khoe khoang: “…thằng bố nó ngày xưa tao cai từ hồi tuổi r..ư.ư.ỡ.ỡ.i”
Mà bà cháu bốc phét cũng tài thật đấy. Chú Hùng thế mà bà cháu còn tự hào khoe khoang: “…thằng bố nó ngày xưa tao cai từ hồi tuổi r..ư.ư.ỡ.ỡ.i”
Cai rồi nghiện lại cũng là bình thường mà!
Kể tiếp: Mấy năm sau, khi bỏ hẳn được cái tật ngậm ti, thằng Vít bảo: nó làm anh, bố nó làm em… Chú Hùng trợn mắt: hỗn, mày láo hả ? Thằng Vít trả lời tỉnh queo: theo nguyên tắc, đứa nào bỏ bú trước, đứa đó làm anh…
He he.
Hình tượng “bà cháu” của Mai Vũ làm bác nhớ tới một vị lãnh đạo đầu ngành của bác. Đi đâu ông ta cũng khoe về thành tích đào tạo cán bộ của mình và luôn tự hào rằng cậu này, cô kia bây giờ làm đến như thế là nhờ ở sự dạy dỗ của ông. Cho đến khi đám “cậu này, cô kia” của ông lần lượt sa chân vào những thói sân si tiền, tình, quyền chức…thì ông lờ tịt.
Còn nhân vật “chú Hùng” của Mai Vũ thì có thể bắt gặp ở khắp mọi nơi. Đó là những quý ông hay rao giảng cho cấp dưới những bài học đức hạnh cao siêu song ông ta cũng luôn “háu hức” và sãn sàng la liếm mọi thứ tục lụy như ai.
Kính cẩn cảm ơn giáo sư Mai Vũ.
Tuyệt quá MaiVũ@ ơi !
Trẻ con bi chừ đó người lớn qua mặt !
he he…
“Giời đất ơi! Chả hiểu chúng mày nghĩ sao. Truyền thuyết với cái ti giả thì có khác gì nhau đâu hở giời!”. Bà cháu giằng lấy thằng Vít bảo: “Thôi! Vít ra đây bà cho bú nhá! Thật của bà còn bằng vạn cái đồ giả kia nhể”
****
He he… ông bà nội Mai Vũ nói đúng quá ! Giống như đi Giỗ tổ mà thà ăn bánh dầy các bà nông dân làm đi bán còn hơn bánh chưng to tổ bố mà kèm hộp xốp !
Tóm lại là đọc hết các CM đều thấy 1 ý : Lễ hội này như dở hơi. Phải thế không ạ ?!
Vua Hùng có thật hay không? Em chịu. Mà cái ngày 10/3 âm lịch từ đâu mà có ? Em chịu nốt. Ngày 06/3 cũng thế. Nhưng nói như bác SH nói thì hình như chúng ta đang làm nên lịch sử. Thế mới có chuyện cụ NSL sống cách thời Vua Hùng gần 2000 năm mà viết sử cứ rau ráu. (ĐVSKTT)
Thời Vua Hùng, bắt đầy từ năm 28xx TCN kết thúc vào năm 25x TCN. Tổng cộng khoảng 2600 năm. Bác nào giỏi toán chia hộ em 2600/18 cái.
Vua giỏi thế, trường thọ thế ( toàn trên 100 năm cả) mà khi chết đi không bày lại bài thuốc trường sinh cho con cháu phải chăng có ý nói – Chúng mày chết sớm đi cho rảnh nợ.
Mà cũng lạ, chỉ cách đây vài hôm. Mọi người nhẩy dựng lên vì vụ ĐNB. Cũng là chuyện nguồn gốc tổ tiên. Nay cũng nhẩy dựng lên vì vụ Giỗ tổ. Vậy là cớ làm sao? Mâu thuẫn quá.
Đến đây chắc sẽ có bác phản ứng ” Nói là nói cái bọn lợi dụng lễ hội để kiếm chác, tham nhũng… “. Xin thưa với các bác. Cóc cần lễ hội, cóc cần vụ 1000 năm. Nếu có cơ hội thì vẫn thất thoát, tham nhũng như thường. Hay bác nào định nói : “Nếu là tôi sẽ không thế. Vì…. đạo đức, vì…. tự hào dân tộc…. vì….” Nếu thế thì thua toàn tập. Nguỵ quân tử là căn bệnh đang phát tiển theo cấp số nhân ở thời đại Internet.
Tội nghiệp Vua Hùng, tội nghiệp tổ tiên, dù là dã sử, chính sử, hay huyền sử. ( Bắt chước BLập) Hu hu..
Tôi thích cái còm này của master.
Thích nhất câu “Thế mới có chuyện cụ NSL sống cách thời Vua Hùng gần 2000 năm mà viết sử cứ rau ráu. (ĐVSKTT)”.
Nghe cứ là rau ráu :).
To: Master@:
Master là thạc sĩ hay là am tường ? Tui chỉ học đến thạc xỉn nên loay hoay chiếu rượu quê choa uống rượu ké. Xin có đôi điều với bạn, đã là huyền sử thì làm gì có thời gian chính xác, các vua Hùng đều là con của rồng và tiên thì cũng loại quái nhân thì co tuổi thọ cao cũng có thể chấp nhận.
Bạn master chắc học master về kỹ thuật nên đòi hỏi cái gì cũng phải chính xác chứ ở bên Nhật người ta cũng có vô vàn lễ hội cho dân người ta nghĩ ngơi tái tạo sức lao động mà có lễ hội tôn vinh “cần tăng dân số” người ta mặc áo kimono vác cái “cần” bằng mô hình bự tổ bố chạy lòng vòng khắp phố. Thế thì lúc đó tìm nguồn gốc theo như logic mà bạn đưa ra thì đố biết cái “cần” từ đâu ra.
Còn việc tiến hành quốc giỗ thì co gì là xấu. Đó là sự thể hiện nghĩa tình có trước có sau vơ’i các bậc tiền nhân và thông qua đó là chấn hưng dân khí, khơi dậy lòng tự hào dân tộc. Bên cạnh đó chúng ta cũng có được một ngày hưởng lương mà không phải làm việc và cả nước sẽ dc lợi thông qua các hoạt động vui chơi nghỉ dưỡng trong dịp này.
hi hi hình như bác bamboospirit chưa đọc kỹ còm của master.
Cảm ơn bác HC
Cũng đang định giải thích với “Tre cứng”. Nhưng thôi lại nghĩ hay cứ kệ để tranh luận. Có khi thế lại vui.
“Tội nghiệp Vua Hùng, tội nghiệp tổ tiên, dù là dã sử, chính sử, hay huyền sử.”
Có quen không mà… tội nghiệp?
Tổ tiên thì cũng láng máng, đâu như đã có lần ông bà, bố mẹ, giáo huấn những lúc mình hư hỏng. Rồi thì ngày Tết thắp hương lúc giao thừa. Nhưng mà Mr Hùng thì… lắm lúc hoang mang quá đi!?
Tre cũng đọc kỹ com của master rui! Nhưng tre muốn nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực tới mục tiêu mà các lãnh đạo muốn hướng tới. Còn mục tiêu đó có bị những những ông đầu hói, bụng phệ thì có giời biết và ai cũng biết nhưng có một số người không biết hoặc cố tình giả không biết để cho em út kiếm chút….
các bác bảo bà Âu Cơ đi xuất khẩu lao động nên ta không thờ, vậy cái đền bà Âu Cơ ở Hiền Lương, Hạ Hoà, Phú thọ thì thờ bà nào vậy? mà đây là di tích lịch sử cấp quốc gia đó.
Xin lỗi bọ, cái còm này đặt sai chỗ rồi, nó nằm dưới cái còm của “giải thích sách giáo cho con” cơ. Bọ có thể sửa lại giùm được ko?
monggun cứ còm laị, bọ không comg được, vì nếu bọ còm sẽ hiện ra nick và avarta của bọ
Còn tổ H. đang được thờ khắp mọi nơi nữa. Rồi bà tổ H… mà không được. Bà là người Tàu. Chả lẽ lại thờ bà Tàu?
“Năm mươi con theo Bố lên rừng. Năm mươi con theo Mẹ xuống biển”hình như bị nhầm, bố là Rồng nên xuống biển, mẹ là Tiên nên lên núi phải không Bọ.
Trừ ngày Giổ Tổ ra, tôi thấy lúc này mê tín nhiều quá, cái gì cũng cúng, cũng thờ cả
Có lẽ không phải tại mê tín nhưng có thể là do đất nước một phần đang trong thời phồn vinh (tôi nói chỉ một phần thôi nhé) nên cũng biết ơn “bề trên” bằng cúng kiến chăng?
Chuyện cũ kể lại.
Cách đây khoảng 30 năm, cuốn truyên Những người thích đùa, của Azit Nezin, nhà văn Thổ nhĩ kỳ được phát hành ở Việt nam. Rất nhiều người đã đọc và chắc còn nhớ đến ông cùng những tác phẩm của ông.
Tôi cũng nhớ rất nhiều truyện ngắn của ông, trong đó có câu chuyện kể về chuyến đi của một nhân viên Liên hợp quốc đến nước Thổ để tìm hiểu :Tại sao nước Thổ lại nghèo. Suốt cả năm trời ông ta không tài nào gặp được các nhà lãnh đạo Thổ để lấy số liệu. Bởi suốt cả năm, ngày nào nước Thổ cũng có Lễ hội. Khổ nỗi nhân vật rất quan trọng đó lại phải đi theo các Lễ hội nên ông ta không thể gặp nhân viên Liên hợp quốc được.
Truyện viết rất dí dỏm, nhẹ nhàng bằng cách kể chuyện qua các lá thư làm người đọc đến cuối truyện thì hiểu ra sự thật: Tại sao nước Thổ lại nghèo.
Kính chào bác vanthanhnhan@,
Truyên Những người thích đùa, của nhà văn trào phúng Azit Nezin tuy châm biếm những thái quá của xã hội nước Thổ nhưng đầy tinh thần xây dựng và tạo lên được những nụ cười sảng khóai. NHT cũng rất thích đọc truyện này.
Thân chúc bác vanthanhnhan@ sức khỏe dồi dào và cuối tuần vui vẻ nhé.
🙂
Bác Sao Hồng viết rất hay. Đề nghị Bọ lập tuyển làm cộng tác viên.
Người Việt Nam ta xưa nay dùng hàng ngọai nhiều rồi. Thánh, Thần, Phật , Chúa đều là của nước ngòai cả. Nay ủng hộ phong trào người Việt nam dùng hàng Việt Nam. Vì vậy xây đền thờ Lạc long Quân là một điều không có gì không tốt. Chỉ sợ lợi dụng việc xây đền mà ăn cắp gạch xi măng về xây nhà riêng cho mình mà thôi.
Các nhà thờ Chăm, Khơ Me đều thờ những vị thần từ truyền thuyết mà ra. Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu cơ là một truyền thuyết mà mỗi người dân Việt Nam từ bé đến lớn đều biết. Việc xây đền thờ Lạc Long Quân cho nước ta có thê một công trình Văn Hóa để khách du lịch có chổ để tham quan. Hoặc có ai đó muốn tỏ lòng thành về cội nguồn của mình thì đến thắp vài nén nhang càng tốt.
Cảm ơn bác Thuan Bài đã động viên ! Xây đền dựng tượng LLQ thì không sao. Nhưng tôn cụ lên quốc tổ thì mai đây e có mà loạn… tổ !
He he…
Bác SH nói gì thì nói,chứ Bác “dẫn đường” kiểu này,mai mốt làm thêm đền thờ Tổ Bà Cố Tổ Âu Cơ,đền thờ Tổ Bà…,thời buổi “kinh tế khó khăn” chắt chết quá.Bác SH nói mà mai mốt không chừng có thật đó (có làm có ăn mà!)
he he… lo gì ! Hồi xưa xây đền là do dân đứng ra xây. Tiền ít nên họ xây nhỏ. Xây nhỏ nhưng thờ thiêng ! Bây giờ tiền nhà nươc nen họ xây to, thậm chí rất to !
Em chẳng dám bổ báng chi nhưng vì trên chiếu có nhiều bậc cao nhân, các bác cho em hỏi tí, trên thế gian này có nước nào nhiều truyền thuyết và thần thánh như ở nước ta không?
Em thì em thấy chuyện này có lỗi phần nhiều ở các nhà văn và văn hóa.
Cụ Vũ Bằng có kể rằng, 2 anh chị kia iu nhau, thề non hẹn biển lấy nhau nhưng vì 1 lí do gì đấy họ lại không lấy được nhau, 2 anh chị định nhảy sông tự tử nhưng không dám nên lại ai về nhà nấy. Vài tháng sau anh lấy vợ, chị cũng lấy chồng.
Chiện chỉ có vậy nhưng nhà văn NQL viết rằng anh chị kia nhảy cầu chết thật, chết rồi mờ xác họ vẫn ôm chặt lấy nhau, thật là cảm động.
Cụ đồ gàn TN đi qua, bấm độn, bẩu họ chết vào giờ thiêng lắm thế là dân làng lập miếu thờ, miếu rất linh thiêng, ai muốn lấy vợ, lấy chồng đều phải đến lễ, những đêm tối trời dân trong làng vẫn nghe được tiếng thổn thức của đôi trai gái kia
Emxinh@. Đùa ít thôi, tập trung vào tình yêu, tình báo đi.
Bọ Lập viết Bờ lốc là để cười.
Zhivagovn nói:
…….niềm vui của người khác là động lực lớn nhất để duy trì bờ lốc
Em xinh lại nói:
Em cũng vậy, lấy tiền của người khác là động lực lớn nhất để duy trì coi …. đá banh.
Đa tạ bố chồng chỉ dạy, con xin nghiêm túc mờ thưa rằng: bố dạy chí phải, con cảm ơn.
Bờ lốc của bố ở chỗ nào mờ con không biết, bố chỉ cho con với nha
em xinh vô trong google, search vanthanhnhan sẽ hiện ra link sau:
http://vn.360plus.yahoo.com/winter_river1307
đóa là bác dòng sông mùa đôngVTN đấy (tiện thể PR blog bác í luôn, chắc VTN hổng có giận NM đâu hả)
Tình trạng lễ hội, lễ chùa, lễ Phật, … của chúng ta mấy năm trở lại đây diễn ra liên tục, ngày một nhiều, to lớn, hoành tráng & phung phí. Trong đó có những lễ hội đã từng từ bỏ nay lại được chính quyền khôi phục, … dẫn đến sự tốn kém tiền bạc, thời giờ & công sức của nhân dân. Mặt khác làm cho dân chúng không hiểu nổi mình đang đi theo một tín ngưỡng hay tôn giáo văn hóa nào. Đây thực là hồi chuông báo động về sự thiếu hiểu biết, về mê tín dị đoan thái quá, về đường lối tuyên truyền sai lệch làm cho dân chúng ngu muội, …Loạt bài giới thiệu về Kinh Phật (Một tôn giáo xem là đang hướng đến chính thống của nhân dân Việt Nam) giúp cho chúng ta hiểu được thực tế thế nào là kinh Phật chân chính, giúp ta tránh những lệch lạc đang diễn ra.
Ha ha ha… bác Sao Hong@ viết bài hóm hỉnh và thú vị quá. NHT đồng ý với bác Sao hong@ là dã sử (truyền thuyết) và chính sử là những thể lọai sử ký khác nhau. Xét về phương diện lễ hội dân gian thì truyền thuyết được áp dụng để ghi nhớ về tổ Lạc Long Quân là lẽ thường tình. Xét về phương diện đánh dấu cột mốc lịch sử quốc gia thì việc lựa chọn Tổ lập quốc thì xác đáng hơn.
Do vậy NHT theo quan điểm lựa chọn giỗ tổ HÙNG VƯƠNG theo khía cạnh lập quốc thì có lẽ hợp lý. Mặc dù theo truyền thuyết thì tổ LẠC LONG QUÂN là cha của các VUA HÙNG đầu tiên.
Mấy ngàn năm văn hiến thì chúng ta có biết bao nhiêu là đời tổ, như vậy nếu lan man thì có lẽ ngày nào chúng ta cũng có giỗ tổ đấy nhỉ? He he he… Nếu nghĩ lễ theo thì chẳng phải là nghỉ cả tuần như bác Sao Hồng@ nói đâu, mà nghỉ lễ cả năm luôn chứ nhỉ. Sướng nhé! He he he…
🙂
Dù rằng cụ Trần Trọng Kim có nhận xét là người Việt nặng về tâm linh. Nhưng nhiều lễ Hội quá thì rất ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày. Mấy năm gần đây nở rộ phong trào Lễ- Hội như kiểu ” trăm hoa đua nở”. Theo thống kê của Bộ VH-DL thì cả nước có chừng khoảng 9000 lễ hội lớn nhỏ. Lại còn có cả lễ hội mới du nhập vào. Tuy phần lớn tiêu tiền dân, nhưng khoản kinh phí của Nhà nước chi ra cũng không ít. Nhiều lễ hội bị biến tướng, lại có nơi linh thiêng biến thành” buôn thần, bán thánh”…
Tản văn của Dr. SH rất thú vị!
Có lẽ lễ hội ở Việt Nam cũng phát triển giật cục theo kiểu tư duy quản lý giật cục vậy. Có thời kỳ thì cấm lung tung với khẩu hiệu bài trừ mê tín, di đoan, có lúc lại tràn lan tổ chức lễ hội biến tướng theo phong trào mà bất chấp ý nghĩa, mục đích văn hóa của lễ hội là gì.
Chẳng lẽ phú quí sinh lễ nghĩa, thì lễ hội theo kiểu phong trào “trăm hoa đua nở” là biểu hiện của sự phồn thịnh hiện nay. NHT nghĩ rằng lễ hội là điều đáng tôn trọng và nên tổ chức, bởi lẽ đó chính là đời sống tinh thần cộng đồng, tín ngưỡng cộng đồng, văn hóa cộng đồng. Thế nhưng liệu cơm gắp mắm là điều cần cân nhắc trong chi tiêu cộng đồng.
Xét về tính kinh tế nếu xem đầu tư, tổ chức xây dựng các công trình phục vụ cho lễ hội cũng là một lọai hình thức kích cầu, nếu đúng thì hiệu quả rất cao về xã hội lẫn kinh tế, nhưng ngược lại nếu kích cầu lung tung, không đúng chổ, đúng đối tượng thì đó chỉ là sự phung phí mà thôi.
He he … có lẽ bác Sao Hồng@ không trả lời được câu hỏi của con trẻ nên bức xúc xuất thần ra bài nhàn đàm rất hay và súc tích này chăng. 🙂
Chào bác@Người Học Trò.
Lâu lắm mới gặp lại Bác trên chiếu. Nhiều người nhớ đến bác đấy trong đó có tôi. Chắc Doanh nghiệp của bác cũng đã qua cơn suy thoái.
Chúc bác và Doanh nghiệp của Bác: Khỏe và Mạnh.
Kính chào huynh vanthanhnhan@,
Vâng doanh nghiệp NHT cũng lao đao, lận đận cùng suy thóai, nhưng cũng may mắn bơi được vào bờ và tích góp lại từ đầu thôi bác ạ.
Cám ơn sự chia sẻ của huyng vanthanhnhan@, thân chúc huynh và gia quyến hạnh phúc, hanh thông mọi mặt nhé.
🙂
Xin chào Người Học Trò, lâu quá nhỉ.
Bác nghỉ dài một đận rồi xuất hiện, rồi lại nghỉ, cứ như cầu thủ bóng đá. Anh em vẫn nhắc tới bác và hy vọng mọi sự tốt lành.
Riêng tôi, vẫn nhớ mãi cái còm luận về Tâm và Pháp của bác. Có điều khi tôi đọc kỹ còm ấy thì bà con đã qua đề tài khác rồi, nên lúc đó không bày tỏ sự ngưỡng mộ với bác được :).
Kính chào bác Hồng Chương@,
Cám ơn sự chia sẻ của bác Hồng chương@, He he… NHT phải làm việc nhiều hơn để vượt qua cơn suy thóai kinh tế nên ít còm, mong các bác thông cảm cho nhé. Bây giờ thì NHT cũng đã được thỏai mái hơn và công việc phát triển tốt lên dần rồi. NHT rất cảm động khi nhận được lời động viên, chia sẻ của mọi người.
Kính chúc bác Hồng Chương@ và gia quyến cuối tuần thư giãn vui vẻ, thú vị nhé.
🙂
Cảm ơn bác NgườHọcTrò@.. đã động viên !
Em cứ băn khoăn là sao cha ông ta Giỗ tổ Hùng Vương có hơn ngàn năm nay, kể cả các nhà nước phòng kiến, vì LLQ là truyền thuyết. Bây giờ mấy quan bác thời nay lại lấy nhân vật truyền thuyết làm … quốc Tổ !?
Chắc cha ông ta có kiên thức lịch sử, sự tôn trọng lịch sử không bằng các quan thời nay ? Không khéo việc xây đền thờ, đúc tuwọng LLQ họ cho là “sửa chữa thiếu sót của lịch sử “?
Pingback: Tin 23-4-2010 « BA SÀM
Hehe .. bác Sao cũng theo quan niệm “cha truyền con nối” để mà lật ngược truyền thuyết nữa rồi : “ Cũng như mọi người, chuyện Lạc Long Quân & Âu Cơ sinh ra 100 con từ bọc trăm trứng. Năm mươi con theo Bố lên rừng. Năm mươi con theo Mẹ xuống biển » ??
Theo Lĩnh nam trích quái thì là : (Lạc Long Quân nói) Ta đem năm mươi con về Thủy phủ chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên. Trăm con vâng theo, sau đó từ biệt mà đi. Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang » .
Điều này cũng hợp lẽ với tính cách Rồng của Lạc Long Quân nên kéo nhau về biển và tính cách Tiên của Âu Cơ để đưa nhau lên núi mà ở .
Cháu Mai Vũ đâu rồi ? Tối nay xin phép bố mẹ qua nhà dì chơi và ngủ lại luôn nghe. Chuẩn bị vài chuyện thật hay kể dì nghe và dì sẽ… thưởng. Mà chuyện dì thưởng là phải giấu kín, bí mật nghe, đừng kể bố cháu nghe… Bố cháu mà biết, cũng đòi kể chuyện như cháu thì dì… khó xử lắm.
Cháu Mai Vũ đây cô Thu Le ơi ! (chuyển giúp lời nhắn của MV@…)
….
Hấc…hấc…hấc…hấc…về sau còn chuyện này buồn cười lắm cơ nhưng, cháu kể các bác, các cô, các chú nghe cấm kể lại cho chú Hùng cháu nghe đấy nhá! Chú Hùng mà biết cháu kể chuyện này thế nào cháu cũng bị ăn tát.
Hôm qua í, cái lúc mà bà cháu giằng lấy em Vít để bế í…nhưng cuối cùng em í vẫn ôm chặt lấy cô Hà để khóc. Cô Hà thấy thế mới dỗ em Vít: “Ừ thôi thôi cho mẹ xin, cho mẹ xin. Đây mẹ đền Vít đây”. Vừa nói cô Hà vừa vạch áo cho em Vít bú. Chú Hùng thấy thế sán lại ngồi cạnh xem. Em Vít nức nở luống cuống bập ngay vào mút. Tự dưng chả hiểu sao vừa mới rúc vào em í lại nhè ngay ra khóc òa lên to hơn trước. Cô Hà luống cuống nhíu mày nghĩ nghĩ rồi bất ngờ túm tai chú Hùng dúi xuống đống chăn gối nghiến răng rít lên: “Giời ạ! Cái mồm này này! hay hút thuốc lá này! không chịu súc miệng gì cả này!… Có lấy ngay cho tôi cái khăn ướt để lau sạch mùi thuốc lá không thì bảo”….Ối giời ơi là giời! Cháu vọt ra ngoài bụm mồm cười tưởng ngất đi được. Cứ tưởng chú í hay kể chuyện truyền thuyết cho trẻ con nghe thì chú í phải thế nào, hóa ra là thế. Buồn cười quá, cười đau cả bụng.
Mà bà cháu bốc phét cũng tài thật đấy. Chú Hùng thế mà bà cháu còn tự hào khoe khoang: “…thằng bố nó ngày xưa tao cai từ hồi tuổi r..ư.ư.ỡ.ỡ.i”
Bởi: mai vũ ngày 24.04.2010
lúc 11:14 sáng
Đợi mãi chẳng thấy Mai Vũ trả lời, mà thứ hai thì lâu quá, tranh thủ lúc chiều ra ngồi lê quán trà mạn đầu xóm em liền hỏi bác Tư Bao La và được bác trả lời như sau:
1/ Không gọi phép gọi là Ông Tổ, mà phải gọi là Thủy Tổ và Tổ.
2/ Thủy Tổ Lạc Long Quân là Thủy Tổ của dân Bách Việt.
3/ Vua Hùng lập ra nhà nước Văn Lang, được xác định là lập quốc và là Tổ của người Việt Nam ta.
Bác Tư Bao La ví dụ thế này, như tao phải đây này phải thờ ít nhất 4 Ông Tổ. Thứ nhất là Ông Tổ họ nhà tao. Thứ 2, trước đây tao làm nghề đúc đồng nên tao vẫn thờ Ông tổ nghề đúc đồng. Thứ 3, vì tao đang có bán kèm lô đề nên tao phải thờ Ông tổ nghề bài bạc. Thứ 4, tao là tay nói dóc có hạng nên tao có thờ Ông Tổ Trạng (chuyên nói dóc). Mày thấy không, thờ nhiều Ông Tổ thì nhiều lộc biết chưa.
Bác Năm Xiên đang trầm ngâm toan tính nước cờ tướng bàn bên quay sang châm bác Tư một câu, ông còn thờ thiếu một Ông Tổ vẫn đang đem lộc đều đều về cho ông đấy nhé, biết điều bổ sung vào danh sách đi không là mất hết lộc đang hưởng đấy. Bác Tư quay sang vặc: Ông Tổ nào? Thì Ông Tổ nghề bán nước đó, Bác Năm nói. Bác Tư gái vốn lãng tai tưởng bác Năm châm chọc chuyện làm ăn, đang xem đĩa Xuân Hinh lên đồng nói vọng ra: này cái nhà bác Năm kia, nhà tôi bán chén nước trà cho người ta giải khải, có chỗ ngồi buôn chuyện, chứ không có bán nước , bán dân như thằng Cả Tõm nhà bác đâu nhé, mà bác cạnh khóe giàu ức vạn cái gì.
Em chỉ nghe đến đó, đủ ý rồi thì lượn về đây comt luôn cho khỏi quên.
Em đang học cách kể chuyện của Mai Vũ và các tiền bối ở đây. Lời kể có gì lỗ mỗ mong các bác thông cảm. Dần dần chắc em kể chuyện sẽ hay hơn.
có quyết định hành chính thì có các ngày giỗ vậy quy cách vái tổ thì vái tthế nào chứ như sáng nay(10/3)khi các bậc đại to dâng hương vái tổ thì tui cứ thấy họ vái lia lịa 3 ,5 .tui không biếtđúng sai các bọ trong chiếu cho tui biết tý nhé xin cảm ơn(vì khi xem trực tiếp tôi thấy vái )
Bác GL hỏi còn câu khó.
Phải suy nghĩ mãi mới tìm ra. Chứ tra sách của cụ Phan kế Bính( Phong tục VN) cũng không thấy lời giải thỏa đáng. Thôi thì tiện đây xin hầu Bác và bà con vài dòng. Biết đâu có khi dùng:
1 Vái
Vái thường được áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái.
2-Lạy
Lạy là hành-động bày tỏ lòng tôn-kính chân-thành với tất-cả tâm-hồn và thể-xác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý-nghĩa khác nhau.
3-Ý-Nghĩa Của 5 Lạy và 5 Vái
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng-trưng cho ngũ-hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng-trưng cho trung-cung tức là hành-thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý-kiến cho rằng 5 lạy tượng-trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung-ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng-Vương, quí-vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng-Vương là vị vua khai-sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp-dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì-giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
( theo Khải Chính, Phạm Kim Thư, thuviengiadinh.com,VNthưquán)
Thắc mắc làm chi gl@, ngay như trong các lễ tang cấp nhà nước ta hay thấy trên Ti vi, việc thắp nhang hay không, việc ai thắp bao nhiêu cây vái mấy cái còn là…tùy hỉ, chứ nói cho ngay thì trong các quy định về nghi lễ có thấy bảo là phải đi vòng quanh linh cữu mấy vòng, lạy lục mấy cái đâu.
Riêng vụ bắt tay mà khum khum, đưa hai tay ra vồ vập như Phó TTg ta thì sai !
Trên tivi, tôi thấy mấy vị nguyên thủ VN ôm nhau thắm thiết 3 lần cũng thấy ghê ghê.
@danchoa giải thích vậy cũng chưa thỏa đáng. vái và lạy là hai động tác khác nhau, sử dụng cho mỗi trường hợp khác nhau thì khác nhau !
Nên chừ , ta hiểu như sau : Vái là thủ tục hành chính của những người ngang hàng ( bằng nhau về vai vế trong họ, về chức sắc trong làng nước )
Lạy là một hành động ( bắt buộc ) của kẻ dưới đối với người trên ( trên cả chức sắc lẫn vai vế ).
Theo thông lệ Việt ta thì khi dâng hương với tổ tiên thì phải lạy ( ấy là suy từ việc cúng bái tổ tiên nhà tôi mà suy ra ) và nhất thiết phải đi bộ đến nơi chứ không được đi bằng các phương tiện hỗ trợ khác !
vậy , sáng nay khi xem các con cháu thi lễ với tổ tiên trên TV thì thằng cháu ngọai thằng bạn chạy lại hỏi thằng em nó :” đố mi biết răng không phải lạy ? ”
Thằng em nó trả lời :” dễ ợt, vì ông nớ là vua thì còn phải lạy ai nữa ??? ”
Trời đất !
Em là con trưởng, ngày lễ, Tết và cúng kỵ, cha em hay bảo đứng cạnh ông học làm lễ. Đi nhiều em thấy người Nam còn giữ được các động tác lễ bái này, chứa phía Bắc thì người ta vái lạy lung tung, chưa thành chuẩn mực.
Em gửi các bác tài liệu này tham khảo:
CÁCH THỨC LẠY HƯƠNG LINH.
Lạy Hương Linh là một nghi thức trong mỹ tục thờ cúng Ông Bà của dân tộc Việt Nam mà những thế hệ trước đây được học. Ðặc biệt là những người phụ trách nghi lễ gia tộc, làng xã. Những người nầy thường được gọi là “Học trò lễ”. Bộ sách căn bản thường dùng cho học trò lễ là bộ Ấu Học Quỳnh Lâm, trong đó có nhiều cuốn và giải thích nhiều phần khác nhau về nghi lễ cổ truyền của dân tộc. Trong mục “lạy” có hướng dẫn cách lạy hương linh như sau:
1/ Chấp tay: Trước khi lạy, đứng nghiêm chỉnh trong vòng tròn chính giữa chiếu. Hai bàn chân trước rộng sau hẹp hình chữ V, hai bàn tay chấp lại với nhau. Có hai cách chấp tay:
a-Bàn tay phải nắm lại, bàn tay trái ôm bọc ngoài bàn tay phải. Ngón cái của bàn tay trái đè chéo lên ngón cái của bàn tay phải.
b-Các ngón của hai bàn tay đan lại và ép hai lòng bàn tay lại với nhau, ngón cái của tay trái cũng đè lên ngón cái của tay phải như trên. Ðể tay ngay chính giữa ngực; cao ngang trái tim, khoảng cách giữa ngực và bàn tay khoảng một tấc tây.
2/ Cách lạy:
a-Chân trái bước lên một bước, chân phải bước theo, đứng ngay ngắn như trước, vái một vái.
b-Cong lưng, gập đầu gối lại, dùng hai tay chống xuống đất làm điểm tựa.
c- Chân trái làm trụ, chân phải bỏ lui về sau, quỳ gối ngang với bàn chân trái;
Chân phải làm trụ, chân trái đẩy lui về sau, quỳ gối ngang bằng như chân phải.(hai gối ngang nhau). Hạ hai cùi chỏ sát đất làm điểm tựa, hai bàn tay để sắp hay lật ngữa tuỳ ý, trán cúi xuống sát đất.
3/ Ðứng dậy: Dùng sức của hai bàn tay (nếu để ngữa thì lật sấp lại) đẩy toàn thân quỳ thẳng lên, chấp hai tay để trước ngực như trên. Ðưa chân trái lên phía trước, ở thế quỳ một chân trái, hai tay vẫn chấp lại tựa trên đầu gối trái, dùng lực của chân trái và mũi chân phải bật đứng dậy, rút chân trái nhập vào với chân phải, trở lại tư thế và vị trí lúc ban đầu.
Lưu ý: Tay áo lễ rất rộng và dài (chiều dài của hai tay áo bằng chiều cao của chiếc áo). Trước khi lạy xuống, hai tay đang ở tư thế chấp tay, khoác ra hai bên nữa vòng tròn về phía dưới, khi tay đưa lên đồng thời hạ người xuống để tránh đè tay áo. Chân bước lên trước là tránh đạp vạt áo, để khi đứng dậy người khỏi mất trọng tâm.
Qua phần tham khảo ở trên, chúng ta có một nhận thức rỏ ràng: xuất xứ, cách thao tác, ý nghĩa và lợi ích của lễ bái. Ngưỡng mong quý cư sĩ Phật tử thực hành, thực chứng trong việc tu tập, ngõ hầu thăng hoa và trang nghiêm đạo tràng trên bước đường tu học.
Mỗi môn phái, mỗi quốc gia có cách lễ bái riêng mang bản sắc dân tộc như Nhật Bản, Tây Tạng . . . rất đáng tôn quý. Trong phạm vi bài này chúng tôi cũng mong gìn giữ được bản sắc dân tộc “Phật Giáo Việt Nam”.
Trúc Viên và Tâm Pháp
CÁCH LẠY PHẬT
Hồi Phật còn tại thế, khi người ta lễ bái thì quỳ mọp, đầu chí chân Phật. Ấy là đảnh lễ. Hoặc người ta đi quanh Phật ba vòng, theo tay mặt. Ấy là hửu nhiễu tam táp. Còn như lễ Phật tại chùa tháp, tức lạy tượng cốt Phật, thì thân đỉnh lễ, miệng xưng danh hiệu Phật, tâm tưởng có Phật trước mặt mình.
BÁI 拜: (Tạp ngữ). Khi lễ Phật thì nên theo qui tắc mà Phật giáo đã chế định, vì cách thức lễ Phật khác với cách thức lễ bái của thế gian.
Nay tường thuật cách thức lễ Phật như sau:
1- Chắp hai bàn tay, đặt trước ngực, đứng trước tọa cụ (chiếu ngồi).
2- Ðưa bàn tay phải xuống đặt giữa tọa cụ.
3- Bàn tay trái đặt ở mép trái của toạ cụ phiá trước (đây là một động tác)
4- Bàn tay phải từ trong giữa đi ra mép bên phải của tọa cụ (đây là một nửa động tác ) mà theo cách thức lễ bái của thế gian gọi làhai động tác rưỡi ), hai bàn để cách nhau khoảng 6 tấc).
5- Ðầu đặt lên tọa cụ ở giữa khoảng hai bàn tay.
6- Hai bàn tay thu vào và ngữa lòng bàn tay lên, lúc nầy dùng hai bàn tay đặt lên chân Phật, cho nên gọi là Ðầu diện lễ túc (đầu và mặt lễ chân).
7- Nắm hai bàn tay lại, lật lên, nhưng vẫn giữ nguyên vị trí trên tọa cụ.
8- Ðầu cất lên khỏi tọa cụ.
9- Kéo bàn tay phải vào giữa tọa cụ.
10- Ðưa bàn tay trái khỏi tọa cụ và đặt trên ngực như dáng chắp tay.
11- Dùng bàn tay phải tỳ xuống để lấy sức đứng dậy (đồng thời, hai đầu gối cũng rời khỏi tọa cụ) và chắp lại với bàn tay trái, đặt trước ngực.
Ðến đây là một lạy, và ít nhất là phải lạy ba lạy. Nếu lạy nhiều thì cứ tính số 3 gấp lên, như 6 lạy, 9 lạy, 12 lạy v.v..
Lạy xong, còn thêm một lạy nữa mà người đời gọi là vái chào, và nhà Phật gọi là Vấn tấn (thăm hỏi). Khi lạy xong, hai tay vẫn chắp trước ngực rồi từ từ đưa hai tay xuống (lúc này cả người đều cúi xuống) quá đầu gối khoảng một tấc, dùng bàn tay phải đặt bên trong bàn tay trái làm thành nắm tay, rối đưa lên ngang lông mày (lúc nầy người đã đứng thẳng), lại duỗi bàn tay thẳng ra, đặt trước ngực, lòng bàn tay ngữa lên, hai ngón tay cái giao nhau, đây tức là thủ ấn của đức Di Ðà. Lạy Phật như thế đến đây là xong.
Trích Từ Ðiển Phật Học Hán Việt
Tài liệu dưới đây cũng khá chuẩn:
-Nguyên-Tắc Cúng, Khấn, Vái, và Lạy
I. Nghi-Thức Cúng Gia-Tiên
Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,” rượu, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy.
II. Định-Nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy
a. Cúng
Khi có giỗ Tết, gia-chủ bày hoa (bông) quả, nước, rượu, cỗ-bàn, chén bát, đũa, muỗng (thìa) lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương), thắp đèn, đốt nến (đèn cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu-kính, biết ơn, và cầu phước-lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình-thường, cúng là thắp nhang (hương), khấn, lạy,và vái.
b. Khấn
Khấn là lời cầu-khẩn lầm-rầm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên-quan đến các chi-tiết về ngày tháng năm, nơi-chốn, mục-đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa.
Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính-cẩn. Người ta thường nói khấn vái là vậy. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du dùng từ khấn vái trong câu “Lầm rầm khấn vái nhỏ to,/ Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.” (câu 95-96)
c. Vái
Vái thường được áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái .
d. Lạy
Lạy là hành-động bày tỏ lòng tôn-kính chân-thành với tất-cả tâm-hồn và thể-xác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý-nghĩa khác nhau.
– Thế Lạy Của Đàn Ông
Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ- phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số
Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra.
Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi chuẩn-bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa-học và vững-vàng. Sở-dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng-bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn-bị đứng lên cũng vậy. Sở-dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững-vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.
Thế lạy phủ-phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất và đồng-thời quì hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy đã tập-luyện hằng-ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh-thoảng quí cụ mới đi lễ chùa, phải cẩn-thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng-bằng.
– Thế Lạy Của Đàn Bà
Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng-thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết . Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.
Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.
Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng-dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển-chuyển tha-thướt, tượng-trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều bất-tiện là khi mặc âu-phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao-niên còn áp-dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc-Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi.
Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền-thống rất có ý-nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành-khẩn vừa trang-nghiêm trong lúc cúng tổ-tiên. Nếu muốn giữ phong-tục tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh-niên phải có lòng tự-nguyện. Muốn áp-dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập-dượt lâu mới nhuần-nhuyễn được. Nếu đã muốn thì mọi việc sẽ thành.
III . Ý-Nghĩa của Lạy và Vái
Số lần lạy và vái đều mang một ý-nghĩa rất đặc-biệt. Sau đây chúng tôi xin trình-bày về ý-nghĩa của vái và lạy. Đây là phong-tục đặc-biệt của Việt Nam ta mà người Tàu không có tục-lệ này. Khi cúng, người Tàu chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi.
a. Ý-Nghĩa Của 2 Lạy và 2 Vái
Hai lạy dùng để áp-dụng cho người sống như trong trường-hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng-điếu, nếu là vai dưới của người quá-cố như em, con cháu, và những người vào hàng con em, v.v., ta nên lạy 2 lạy.
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý-nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính-cẩn, chứ không có ý-nghĩa nào khác. Nhưng trong trường- hợp người quá-cố còn để trong quan-tài tại nhà quàn, các người đến phúng- điếu, nếu là vai trên của người quá-cố như các bậc cao-niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá-cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan-tài đã được hạ-huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm-dương, khi chưa chôn, người quá-cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng-trưng cho âm dương nhị khí hòa-hợp trên dương-thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
b. Ý-Nghĩa Của 3 Lạy và 3 Vái
Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng-trưng cho Phật, Pháp, và Tăng (xin xem bài về “Nghĩa Đích Thực của Quy Y Tam Bảo” đã được phổ biến trước đây và sẽ được nhuận sắc và phổ biến). Phật ở đây là giác, tức là giác-ngộ, sáng-suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh-đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong-sạch, thanh-tịnh, không bợn-nhơ. Đây là nói về nguyên-tắc phải theo. Tuy-nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường-hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu-phục, nếu cảm thấy khó-khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
c. Ý-Nghĩa Của 4 Lạy và 4 Vái
Bốn lạy để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh-thần. Bốn lạy tượng-trưng cho tứ-thân phụ-mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao-gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú-ngụ.
Bốn vái dùng để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp-dụng thế lạy.
d.Ý-Nghĩa Của 5 Lạy và 5 Vái
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng-trưng cho ngũ-hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng-trưng cho trung-cung tức là hành-thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý-kiến cho rằng 5 lạy tượng-trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung-ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng-Vương, quí-vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng-Vương là vị vua khai-sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp-dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì-giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
IV Kết Luận
Phong tục có được là do thói quen mà mọi người đã chấp nhận, nhiều khi không giải thích được lý do tại sao lại như thế mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi. Trong mỗi gia đình Việt Nam, dù theo đạo nào cũng vậy, chúng ta, con dân nước Việt, hãy cố gắng thiết lập một bàn thờ gia tiên. Có như thế, con cháu ta mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập bàn thờ gia tiên, và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao.
Thờ cúng là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy trì.
Cúng giỗ
Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Ðây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là trước cúng sau ăn, cũng là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Với ý nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục.
* Ngày cúng giỗ
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ.
Nguyên ngày trước, “Lễ giỗ” gọi là “Lễ chính kỵ”; chiều hôm trước lễ chính kỵ có “lễ tiên thường” (nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ. Tóm lại, nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng.
* Mấy đời tống giỗ
Theo gia lễ: “Ngũ đại mai thần chủ”, hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới mất mà thế vào thần chủ ông khảo.
Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ (cao, tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can),; cụ (hay cô), ông bà, cha mẹ. Từ “Cao” trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.
* Cúng giỗ người chết yểu
Những người đã đến tuổi thành thân, thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc mới có con gái, chưa có con trai hoặc có con trai nhưng con trai cũng chết, trở thành phạp tự (không có con trai nối giòng). Những người đó có cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con cháu người thừa tự đó tiếp tự.
Những người chưa đến tuổi thành thân (dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tuỳ theo tục lệ địa phương) sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với tiên tổ. Những người đó không có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại lệ. Có những gia đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mân, coi như người thân còn sốngtrong gia đình. Ðiều này không có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưởng vọng đối với thân nhân đã khuất.
Giỗ tết, Tế lễ
Quan niệm cổ xưa không riêng ta mà nhiều dân tộc trên thế giới mọi vật do tạo hóa sinh ra đều có linh hồn, mỗi loại vật, kể cả khoáng vật, thực vật cũng có cuộc sống riêng của nó. Mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay vô hình, cụ thể hay trừu tượng đều mang khái niệm âm dương, đều có giống đực giống cái. Ðó là xuất xứ tục bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới và một vài dân tộc ở miền núi nước ta.
Ở ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được nhân dân thờ cúng, coi đó là biểu tượng, nơi ẩn hiện của vị thiên thần hay nhân thần nào đó. Người ta “sợ thần sợ cả cây đa” mà cúng cây đa, đó không thuộc tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước tượng Phật, tượng Chúa, lễ Thần, quì trước long ngai của thần, nhưng thần hiệu rõ ràng, chứ không phải khúc gỗ hòn đá như tục bái vật.
Ngày nay chỉ còn lại vài dấu vết trong phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi có dâu về nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo, có nghĩa là tạm lánh nhưng vẫn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ tay làm vỡ bình vôi thì đem mảnh bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vứt ở chỗ ô uế.
Gỗ chò là loại gỗ quí, gỗ thiêng chỉ được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ. Dân không được dùng gỗ chò làm nhà ở. Ngày xưa trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy.
Công phu, công phu … !
Thao@, bác nói cửu tộc(9 đời) cháu chưa rõ lắm vì xưa nay cháu nghe nói chu di tam tộc nghĩa là giết cả 3 họ ( họ bố, họ mẹ, họ vợ).
Vậy chữ TỘC có nghĩa là HỌ hay ĐỜI.
Kính mong bác chỉ giúp, cháu chân thành cảm ơn
emxinh luận ra nhé (nghĩa thứ nhất của 族 tộc í).
族 tộc
[Pinyin: zú]
1. Loài, dòng dõi, con cháu cùng một liêu thuộc với nhau gọi là tộc. Từ cha, con đến cháu là ba dòng (tam tộc 三族). Từ ông cao tổ đến cháu huyền gọi là chín dòng (cửu tộc 九族). Giết cả cha mẹ vợ con gọi là diệt tộc 滅族.
2. Họ, cùng một họ với nhau gọi là tộc. Như tộc nhân 族人 người họ, tộc trưởng 族長 trưởng họ, v.v.
3. Loài. Như giới tộc 介族 loài có vẩy, ngư tộc 魚族 loài cá, v.v.
4. Bụi. Như tộc sinh 族生 mọc từng bụi.
5. Hai mươi lăm nhà là một lư 閭, bốn lư là một tộc 族.
6. Một âm là tấu, dùng như chữ tấu 奏.
Theo Từ điển Hán-Việt Thiều Chửu
bọ cho con nhờ chiếu tí:
@Nice Cowboy: hôm qua Nice Cowboy có hỏi Zhi một câu rất thú vị nhưng hóc búa. Zhi tìm ra câu trả lời rùi. hehehe
Hihi, NCB thấy câu trả lời hôm qua của Zhi chưa hẳn chính xác, vì có từ ghép violet-coloured = cũng là màu tím, do đo không thể đoán là bên nớ violet có thể xanh ?! Hôm nay Zhi có câu trả lời khác, để NCB đoán xem, có phải là để cho vần với nhau trong một bài thơ hay không ? từ blue mới có thể hợp vần với từ sugar, hay từ cashew, cùng phát âm ‘oo’ (u dài) ? Có phải Zhi trả lời thế không /
Cười cùng bà con với ViệtnamNet
Lúc nãy vừa vào VNN đọc bài: Lời thách đố 2000 năm đã có lời giải? của PV Đức Chính. Thấy con số 2000 tròn trĩnh quá. Đọc sử cũ thì thấy ghi tháng hai năm Canh Tý( năm 40 sau CN) Hai Bà Trưng dấy binh đuổi thái thú Tô Định về Trung Quốc. Vậy nay ông Đức Chính lại cho là truyền thuyết thần Tản Viên- Sơn Tinh- Thủy Tinh lại xuất hiện vào thời kỳ này. Ngay viết” hơn 2 nghìn năm cũng đã không đúng. Thế mà…
Lạ quá! Lạ quá!
http://www.vietnamnet.vn/vanhoa/201004/Loi-thach-do-2000-nam-da-co-loi-giai-906082/
Chẳng biết chia xẻ gì với Bọ Lập cả. Bởi mấy tháng vừa rồi khắp nơi nơi người ta tổ chức các loại hội, Lễ. Vui ra phết và không nhiều ý nghĩa.
Em hỏi bác giáo TD, khôi phục cái lễ rước Sĩ Nhiếp, Thái thú Giao Chỉ, thì có ý nghĩa gì hả Bác?
http://dantri.com.vn/c20/s20-306188/khoi-phuc-le-ruoc-si-nhiep-nam-giao-hoc-to.htm
Người cho khôi phục lễ rước thái thú Sĩ Nhiếp là lãnh đạo thái thú tên là SỢ KHIẾP…
Hỏi cắc cớ chi rứa ? @danchoa ???
thì … là kính nhớ tổ tiên ấy mà !
Tiến Đặng trích lại tin trên Dân trí để mọi người cùng đọc:
“Sĩ Nhiếp (137 – 226) là Thái thú đất Giao Chỉ vào thời Bắc thuộc từ năm 187 đến năm 226, phong là Long Độ Đình Hầu, đóng đô tại thành Luy Lâu. Ông là một vị quan cai trị có tài, có công phát triển văn hoá cho người Việt và được giới Nho học phong kiến Việt Nam sau này suy tôn là một trong những nhân vật mở đường cho Nho giáo ở Việt Nam, coi là “Nam giao học tổ”.
Ông là người đặt nền móng cho nền văn minh Đại Việt sau này, người đầu tiên mở trường dạy chữ Hán. Lợi dụng nhà Hán suy yếu, ông đã xây dựng Luy Lâu sầm uất như một kinh đô của nước độc lập. Thời kì này cả nước Hán loạn lạc liên miên nhưng vùng đất của Sĩ Nhiếp cai trị vẫn thái bình thịnh trị.
Đại Việt sử kí toàn thư xếp thời này là một triều đại riêng của nước ta, gọi là kỉ Sĩ Vương. Sĩ Nhiếp đã biến chùa Dâu thành trung tâm phật giáo lớn và cổ xưa nhất nước ta được các tăng sĩ Ấn Độ trực tiếp đến truyền giáo.
Chu Thanh Vân TTXVN”
Theo trí nhớ “tồi tệ” của Tiến Đặng thì cái câu khẳng định: “Ông là một vị quan cai trị có tài, có công phát triển văn hoá cho người Việt ” nhà báo nên xem lại. Nho giáo nhờ Sĩ Nhhiếp mà được quảng bá vào Việt Nam nhưng dưới thời Bắc thuộc, nhìn chung dân Việt cự tuyệt văn hóa Hán. Nhà báo klhẳng đinh: “có công phát triển văn hóa cho người Việt” thật là mập mờ. Thôi thì nói toẹt ra cho nó dễ hiểu: “có công Hán hóa”.
Người Bắc Ninh kỉ niệm Sĩ Nhiếp, Tiến Đặng bùi ngùi nhớ đến dạo nào người Việt mình giật đổ tượng A.đơ Rốt ở Hà Nội. Chẳng biết kỉ niệm 1000 năm Thăng Long có ai nhớ đến Ca đạo có công rất lớn trong việc tạo ra chữ quốc ngữ hay không?
Chuyện gốc tích củ tỷ long vương thì đúng là đến các GSTS sử học cũng chịu. Vì thế mà huyền thoại làm thay
Theo huyền thoại thì tất cả chúng ta đều là hậu duệ của thần tiên vua chúa cả OAI!!!
Và hình như nước nào cũng thế cả, toàn thế giới đều là con cháu của thần tiên. Nhưng vì đông quá nên đành vất vả kiếm ăn và còn phải đánh nhau để bảo vệ hoặc tranh giành chứ ít ai được ngồi hưởng lộc vương lộc tướng
Số ít ngồi hưởng và có khi kém quá làm dân khổ nước suy nên lâu lâu lại bị hạ bệ
Bài này BS Sao Hồng viết thú vị!
Được bác DKL@.. khen rứa em sướng âm ỉ cả ngày !
Thanks bác !
“Lạc long Quân lấy nàng Âu cơ đẻ ra trăm trứng, trứng nở thành con trong đó có vài ông vua Hùng, sau đó nàng bỏ con đi xuất khẩu lao động nên ta kô thờ.”
Có lý !
50 con theo Lạc Long Quân xuống biển, nói là xuống biển chứ ở ven biển, trồng lúa trồng khoai ngô thôi, không có dám ra biển, trước đây sợ bão tố ba ba thuồng luồng, nay sợ tàu “lạ”. Ấy thế nhưng các con của LLQ đoàn kết, sống thành làng xóm đàng hoàng và tạo nên một nền văn minh lúa nước ở dân tộc Việt.
Mẹ Âu cơ tuy nhận 50 con lên rừng nhưng phụ nữ không trị nổi bầy con nghịch ngơm, thế là phân chia ra mỗi đứa một vùng nhỏ, người ở đỉnh núi, người lại chỉ ở ven sông suối…mà thành các sắc tộc trong hơn 50 dân tộc anh em. mẹ Âu cơ sau khi phân chia như thế phần thì buồn chồng, phần giận con nên bỏ đi biệt tích chứ ai thuê một bà 100 con làm cái gì mà xuất khẩu ?
Cái “dớp” chia con, chia của chia đất từ hồi cụ Tổ nó còn được lặp lại ở thời Trịnh – Nguyễn và thời Nam – Bắc sau này. Tức là người Việt ta cứ giận lên là đòi “chia” ngay. Cái tâm lý không thể làm ăn chung ấy còn ảnh hưởng đến làm ăn kinh tế sau này khi người Việt ta không biết, không thích dựa vào nhau, chung sức nhau trong làm ăn buôn bán.
( Là tui nương theo bác SH tán nhảm thôi, không phải dẫm trúng bả của chị Đổ Bịch đâu nhé )
Chào anh QL ! Hôm qua BD mới nghĩ răng mai là ngày Giỗ tổ mà anh Lập lại mang dịch ngàn năm ra hè ? Hôm ni có bài cụa eng SH Dư ri là ổn mặc dù có thể nước miềng Diều ông Tổ lắm nhưng mà lấy ông Tổ to nhứt làm Giỗ rứa là hợp ý đảng lòng dân rồi, chúc anh và bà con chiếu rượu một ngày Giỗ Tổ no say, vui vẻ , sức khoẻ là tiên hỉ !
He he… ai chả thích … Giỗ và cổ to !
Chau´ chào cac´ Bac´!
Rảnh rỗi nên ghe´ vô thăm chiêu´ Rượu một chut´ .
Chau´ đang trên đường lên Phu´ Thọ .
Tại vì chau´nghe noi´ trên này co´ nhiều thằng ăn tham, thê´ nào cũng co´ thằng
măc´ nghẹn mà chêt´ .
Đoan´ vậy nên chau´lên cho kịp công viêc.
Không thì thằng khac´ no´ chiêm´ mât´ .
Kinh´ mây´ Bac´ 1 ly rồi chau´ lượn đây.
Như vậy TBTL viết cũng lên tay rồi đấy. Nhưng nhớ là nên viết( đặt chế độ) theo kiểu telex, vừa nhanh vừa đơn giản. Khi viết nguyên âm như chữ a,u,e…muốn có dấu sắc thì gõ luôn chữ s như vậy khỏi phải đánh dấu sau. Luyện vài lần là quen ngay.
Ý kiến nhỏ với TBTL là nên đổi tên thành Trưởng ban Lễ tân@ thì hay hơn còn để tên cũ thì khi lên mạng người ta có cảm tường là nhà có người ốm mà con chim Cú ( không phải Cú Đỉn đâu nha) đến đậu trên nóc nhà, hé hé!
Đi thì đi nhanh lên chứ trên ấy có nhiều chiếu rải chiếm chỗ rồi:
http://www.tinmoi.vn/Nhech-nhac-chieu-rong-o-khu-vuc-Den-Hung-04150251.html
Spam thêm: Lại còn có mấy tượng đài Lê Văn Tám nữa. Chẳng hiểu mất ông nặn tượng có biết rằng khi tẩm xăng vào người đốt thì sẽ quỵ xuống chết ngay vì nóng và ngạt thở.
@Hanoi: quỵ xuống chết ngay thì đúng, nhưng tại sao thì thật ra các chuyên gia vẫn tranh luận mà chưa thống nhất. Dù giả thiết vì nóng và ngộp thở thắng thế, nhưng do cả 3 tình nguyện viên đều chết trước khi có thể trao đổi với các chuyên gia nên cuộc tranh luận vẫn chưa ngã ngũ.
Bác Sao Hồng nói: Phú quí sinh lễ nghĩa. Không phải như vậy, mà “LỄ NGHĨA SINH TRỌC PHÚ” ( cho một số người thôi )
Tui có nói mô ! Đó là câu thành ngũ, tục ngữ đó chớ !
Chuyện cụ Tổ không phải là chuyện chơi. Bác SH chẳng lẽ không biết chuyện em Đỗ Thị Ngọc Bích gì đó viết nhăng nhít gì đó trên BBC tiếng Việt bị la ó như thế nào không.
Tiến lên VN!
Em đâu viết chuyện cụ Tổ ? Em viết cái chuyện… “nâng cấp” nhân vật truyền thuyết thành cụ “Quốc Tổ” đấy chứ !
He he…
Tôi có ý kiến, để bảo vệ bình đẳng cho giới phụ nữ:
Đã có giỗ Tổ Bố rồi, thì dứt khoát phải giỗ … Tổ Mẹ!
Ông Tư
Hi ! Ông Tư bênh phe miềng , ông Tư tốt cấy Pụng quá . Kính ông Tư 1 ly Xi ka Sâm quê miềng hỉ !
Chưa hết đâu Bọ ơi,rồi một ngày mấy ông rỗi việc sẽ lại đề nghi phải giỗ cả Cụ,Kỵ …của Tổ nữa.
Một là mọi người chấp nhận để được có thêm ngày nghỉ
Hai là chửi mẹ mấy cái thằng rỗi việc ấy.
… không phải rỗi vệc đâu bác ! Em nghĩ họ bày trò ra để có… dự án đó !
Thật nhức đầu! Theo thiển ý của tại hạ thì tiếp sau đền thờ ‘Tổ phụ’ Lạc Long Quân chúng ta chắc k0 thể lập đền thờ “Tổ Mẫu” được vì 2 lẽ:
* Tổ Phụ đã “ly dị” với Tổ mẫu, mà theo tập quán văn hóa Việt truyền thống phong kiến thì người nữ khi “xuất giá” sẽ phải tuân theo quy định: sống quê cha, chết ma quê chồng. Nếu Tổ mẫu đã ly dị về định cư ở miền duyên hải thì các tỉnh ven biển VN sẽ ngồi với nhau bàn xem lập đền thờ Tổ mẫu ở đâu…. Chà chà, chẳng lẽ lập đền thờ …ở bên xứ Lọa (quê quán trước khi xuất giá” chăng?
* VN từ lâu đã có tục thờ Mẫu (chúa Liễu Hạnh) gốc ở Phủ Giầy -Nam định rồi. Hiện có tam tòa Thánh mẫu, chẳng lẽ lại thêm ..Tổ mẫu nữa sao?
giờ trẻ con lại cắc cớ hỏi tại sao cụ tổ mẫu lại ly dị với Tổ Phụ thì @SH , bọ Lập và các tửu viên sẽ trả lời thế nào nhỉ?
…thế nên đền thờ LLQ & AC ở hai ngọn đồi khác nhau !
…
Mẫu đay là phải Mẫu… Quốc cơ !
@SH: Sao bác để trẻ con hỏi lắm thế, không mắng cho nó một trận. Con tôi có hỏi gì khó mình bảo còn bé biết gì mà hỏi, đi lau nhà (hoặc việc gì đó tùy bác) đi.
Hồng Bàng là tổ nước ta
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang
hi hi lại thêm một ông Tổ.
Đùa thôi, Google trên mạng khá nhiều tài liệu, vd:
Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỉ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỉ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, đẻ một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
Bác Hồng Chương đúng là hậu duệ của…Hồng Bàng rồi!
Tóm lại của tóm lại vẫn là “vừa gố vừa nhặng xị” thôi các bọ à.
….Cháu Đào Mai Vũ xin kể chuyện chú Hùng cháu.
Các bác biết rồi đấy, chú Hùng cháu làm lái xe cho ông chủ tịch. Nhưng ông cháu cứ đá đểu chú Hùng ông bảo: Chú Hùng làm công tác dẫn đường chỉ lối.
Dạo này chú Hùng cháu bận ơi là bận, đi mấy ngày mới về. Ngủ được mấy tiếng chú Hùng lại lái xe đi sớm để đón ông chủ tịch. Cô Hà tức chú Hùng cháu lắm nhưng chẳng làm gì được vì chú Hùng bảo là Hậu phương vững mạnh thì anh mới yên tâm vững bước mà đi.
Hôm nay ở Phú thọ mưa nhỏ, Hà nội mưa to, bố cháu đi ngủ với mẹ cháu rồi. Cháu được ngồi máy Vi tính để kể chuyện nhà cháu cho các bác nghe nhé.
Hôm nọ, cháu hỏi chú Hùng cháu là chú có biết tên của Cụ chú là gì không. Chú í bảo: Tao không biết.
Chán thật, cháu tưởng chú Hùng cháu ở gần ông chủ tịch nên cái gì chú cũng phải biết. Ai ngờ, đến cả Cụ của chú mà chú í cũng chẳng biết.
Cháu tức lắm, cháu hỏi ông cháu thì ông cháu bảo :
Ông biết chứ, Cụ của chú Hùng là ông nội của ông, gần thôi mà, Cụ tên là Nguyễn Qúy Công.
Cháu hỏi tiếp: Thế Cụ của ông, ông có biết tên không?
Ông cháu bảo gì các bác biết không. Ông cháu bảo: Không biết, hỏi gì mà lắm thế đi chỗ khác chơi cho ông đọc báo..
Cháu hỏi thằng Tuấn lác: -Mày có biết tên cụ của mày không, nó cũng bảo không. Một lúc sau nó chạy ra rồi nói: Ông nội của tao bảo cụ của tao thì ông nội tao biết, nhưng cụ của ông nội tao thì ông nội tao tịt ngóm, nhưng chỉ nhớ hình như là Đinh Qúy Công thôi.
Nó nói xong làm cháu nhức cả đầu.
Cháu hỏi thằng Cường “ chốc đầu” cũng câu hỏi í, nó cũng làm cháu nhức cả đầu, cuối cùng nó cũng bảo: Ông tao bảo cụ của ông thì ông không nhớ, nhưng ông nội của ông thì ông nhớ, hình như là Phạm Qúy Công thì phải.
Cháu thấy sao mọi người lớn nói giống nhau thế nhỉ, chẳng quen nhau mà ai nói cũng “hình như”, rồi lại nhà nào cũng có Qúy Công.
Thế mới lạ.
Cháu tức quá, cháu hỏi bố cháu:
-Cụ của ông nội tên là gì bố biết không?
Các bác biết bố cháu nói gì không. Bố cháu bảo:
-Mày hỏi thế đến bố tao cũng không trả lời được.
Công nhận quả này bố cháu đoán giỏi thật.
Cháu đi ngủ đây, bố cháu ngủ dậy rồi, cháu vào ngủ với mẹ cháu đây.
Wow, sướng quá được sờ ti mẹ rồi. wow.wow.
Hiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii Cháu Mai Vũ lắm chiện thiệt. Chúc cháu ngày Giỗ Ông Tổ vui như tết nhé !
Đây là quà của các bác ở Lễ Hội vua Hùng cho cháu Mai Vũ, chú Hùng, BD và bà con ta đây. Mời bà con đọc rồi ” ngẫm trong ý tứ mà suy” nhá
Chúc văn do ông Lê Tiến Thọ đọc (GS Vũ Khiêu soạn)
I
Chúng con nay
Sáu mươi ba tỉnh thành: nhớ lại tổ tông
Năm mươi tư dân tộc: tìm về cội rễ!
Công ơn Quốc tổ, vẻ vang Hồng Lạc bốn ngàn năm
Hùng khí Thủ đô, rực rỡ Thăng Long mười thế kỷ.
Một vùng rộn rã trống chiêng
Muôn dặm tưng bừng cờ xí!
Trống đồng dội tới, núi sông dậy sấm anh hùng
Trống đồng vang lên,Trời đất ngút ngàn linh khí!
Bừng lên nhật nguyệt, mây xanh hạt trắng, bát ngát trường thiên…
Rực sáng sơn hà, Cờ đỏ sao vàng, thênh thang thánh địa.
Thuyền xuôi sóng vỗ, sông ba dòng tưới mát muôn phương
Rồng cuộn, Hổ ngồi, núi trăm ngọn chầu về một phía
Núi mây sừng sững công cha
Sông nước dạt dào nghĩa mẹ!
II
Nhớ thuở xưa:
Mẹ từng non cao tỏa sáng nghĩa nhân
Cha vốn biển cả quật cường mưu trí.
Sánh đôi tài sắc Kim cổ kỳ phùng
Hợp một âm dương uyên ương tuyệt mỹ!
Đẹp gia đình trăm trứng trăm con
Vui sơn thủy một lòng một ý.
Cuộc mưu sinh thử thách muôn vàn
Đường lập nghiệp gian nan xiết chảy
Nào rừng rậm, đầm lầy, sông sâu, núi hiểm… chẳng quản xông pha
Nào kình nghê, hổ báo, bệnh tật, bão giôn… lấy gì bảo vệ?
Chia con hai ngả lên đường
Chọn trưởng một ngôi kế vị.
Giang sơn một cõi, sao cho vạn đại trường tồn?
Rừng bể đôi nơi, cùng dựng bốn phương hùng vĩ!
Hiên ngang thay Phù Đổng diệt thù!
Dũng cảm thay Sơn Tinh trị thủy!
Đẹp thay Chữ Đồng Tử! Tình yêu như ngọc sáng gương trong
Giỏi thay Mai An Tiêm! Lao động như dời non lấp bể
Dựng non sông, qua mười tám vương triều
Vững nền móng, để muôn đời thịnh trị
III
Kiên cường bất khuất:
An Dương Vương kế nghiệp, hợp hai bộ tộc vốn thân thương
Âu Lạc quốc hình thành, dựng một cơ đồ thêm tráng lệ
Nước thêm giầu, binh thêm mạnh, đánh tan mọi cuộc xâm lăng
Tình với bạn, nghĩa với đời, giữ trọn một niềm chung thủy.
Giận quân giặc bao phen thua trận, dở mưu hèn giả dạng cầu thân
Bởi vua ta cả dạ tin người, để thân gái sa vào qủy kế
Cơ đồ xưa: bỗng chốc tiêu vong
Sự nghiệp mới: cũng thành hủy phế
Cảnh lầm than đè nặng khắp dân gian
Cuộc chiến đấu trải dài trăm thế hệ
Gái anh hùng, nào Trưng Nữ, Triệu Trinh
Trai dũng lược, nào Phùng Hưng, Lý Bí!
Ào ào khí thế, cờ Vạn Xuân trao Triệu Việt Vương
Bền bỉ tinh thần, gương Khúc Hạo soi Dương Đình Nghệ
Quét sạch ngoại xâm, sơn hà giành lại, lẫy lừng đại nghiệp Ngô Vương
Dẹp yên nội loạn, đất nước thanh bình, oanh liệt hùng tài Đinh Đế
Dương Thái hậu một lòng vì nước, thay Tiên vương trao áo Hoàng bào
Lê Đại Hành mười đạo ra quân, dìm hoàng tặc dưới dòng Bạch Thủy
Lòng hung dạ tối, Lê Ngoạ Triều hết kiếp hôn quân
Nước cậy dân tin, Lý Thái Tổ lên ngôi hoàng đế
IV
Kể từ đây:
Đạo trị binh đủ phép kinh luân
Tài thao lược hơn đời nhân trí
Ra tay dựng lại, vững vàng thêm cơ nghiệp Vua Hùng
Định hướng đi lên, rực rỡ mãi Vương triều họ Lý
Cùng nhân dân phấn đấu tận tình
Với bạn bè chân thành hữu nghị
Cây muốn lặng nhưng gió chẳng dừng
Ta muốn yên mà người chẳng nể
Giã tâm cướp nước cũng lại như xưa
Quyết trí diệt thù ta đành phải thế
Cứu nước giữ nhà, toàn dân càng rạo rực hùng tâm
Vác giáo mang gươm, cả nước bừng bừng nộ khí!
Sóng Bạch Đằng còn cuồn cuộn thế Ngô Vương
Gió Như Nguyệt đã vang vang lời Thái úy
Hội Diên Hồng rung chuyển trăng sao
Hịch Hưng Đạo sục sôi tướng sĩ!
Nằm gai nếm mật, mười năm ròng, bạt vía lũ Vương Thông.
Lở đất long trời, một trận đánh, tan hồn quân Sĩ Nghị
Thế kỷ hai mươi:
Hồ Chí Minh mở lối, ánh chiếu dương rực sáng cả mây trời
Đảng Cộng sản soi đường, sóng cách mạng ào lên như bão bể
Năm năm tư Pháp thua đại bại
Súng Điện Biên vang dội toàn cầu
Năm bảy nhăm Mỹ cút Ngụy nhào
Cờ đại thắng lẫy lừng thế kỷ
Cả Nam Bắc đập tan đế quốc, chấm dứt bạo quyền
Toàn Đông Tây hết nạn thực dân, không còn nô lệ
V
Thế mới biết:
Nước giàu không chỉ quân lương
Dân mạnh còn nhờ đạo lý!
Quốc Tổ răn: Coi sơn hà xã tắc là thiêng
Bác Hồ dạy: Lấy độc lập tự do làm quý!
Trăm con một bọc, yêu thương nhau như ruột thịt chan hòa
Một gốc trăm nhành, gắn bó mãi như keo sơn chặt chẽ
Dựng cơ đồ, chị ngã em nâng
Cơn hoạn nạn, bầu thương lấy bí
Đủ bốn phương: Nam, Bắc, Tây, Đông
Cả trăm họ: Gái, Trai, Già, Trẻ
Bền lòng yêu nước: Vì nghĩa quên thân
Vững đạo làm người: Đồng tâm nhất trí
Thế gian chìm nổi, coi yêu thương là lẽ sống ở đời
Nhân loại khổ đau, lấy đoàn kết làm phương châm xử thế
Gìn giữ tinh hoa Đại Việt, tiếp thu thêm văn hoá Đông Tây
Nêu cao văn hiến Thăng Long, hoàn thiện mãi quốc hồn nhân trí
VI
Nay gặp buổi:
Đảng ta đổi mới tư duy
Dân ta mở mang kinh tế
Con đường giàu mạnh đã thênh thang
Cuộc sống văn minh càng đẹp đẽ!
Thời cơ thuận lợi đã thêm nhiều
Thách thức gian nan còn chẳng dễ
Trước chông gai cờ Đảng mở đường
Trong bão gió nhân dân vững trí
Với tinh thần sắc sảo thông minh
Lại truyền thống sáng ngời nhân nghĩa
Noi theo Quốc Tổ, tiếp tiền nhân phẩm chất anh hùng
Học tập Bác Hồ, truyền hậu thế tinh hoa đạo lý
Thủ đô ngàn năm tuổi, cùng toàn dân hùng mạnh phồn vinh
Cả nước một lòng, với nhân loại hoà bình hữu nghị
Rực muôn đời Hồng Lạc tinh hoa
Cao muôn trượng Hùng Vương khí thế!
( theo báo ND)
Sao ông Vũ Khiêu không nói chi chuyện mất đảo và ngư dân bị láng giềng bắt… hết hè ?
Văn tế biền ngẫu thế ni chắc hợp cới cụ đồ gàn lắm đây, he he, mong cụ đồ làm văn tế lại mấy anh quan tham
Thế kỉ 20
Lần này ông Vũ Khiêu có nhắc đến Điện Biên Phủ, vì từng bị ông bỏ quên( hay cố tình quên) lần trước. Nhưng sự kiện ra đời nhà nước VNDCCH năm 1945 to lớn như vậy mà ông lại quên.
Tại sao không để cụ Vũ Khiêu đọc luôn lại để cho ông Lê Tiến Thọ đọc nhỉ ? Ông Thọ có gì hơn cụ Khiêu ?
Có lẽ vì viết cho người khác đọc, tức là theo đơn đặt hàng nên trong lời lẽ của cụ thấy vẫn công thức, sáo mòn, một vài đoạn “cúng cụ” lộ liễu khiến mới đọc thì nghe khá…hào hùng nhưng xem ra thì đầy khẩu hiệu.
Ôi mà thôi, cái gì cũng chuẩn cả thì đâu còn là.
to Dong@: Năm nay là năm chẵn( do qui định của 8/2001ND-CP) nên có Lãnh đạo NN đến dự. Ông Khiêu thì già cả(sn1916) rồi. Ông Thọ còn trẻ trung nên ông Thọ đọc. Đương nhiên là cụ Khiêu viết theo đơn đặt hàng. Lần trước bị phê phán ghê quá, nhất là 100 sự kiện lịch sử của VN lại bỏ quên tướng Giáp và Điện Biên Phủ. Đoạn văn của Cụ Khiêu thì vẫn theo ý Đảng(CS), lòng quan(chỉ đạo). Nhưng trong lần này không nhắc đến hai cụm từ. Đó là” Cộng sản”và ” Chủ nghĩa xã hội”, He He!
Uổng bài sớ tế quá (răng gọi là chúc văn rứa hè?). Chắc ông Vũ Khiêu đau lắm khi phải cưỡng bút thêm vào các đoạn mà không một bậc lương văn thiện ý nào muốn thêm vào trong bài vở của mình.
qx
Hình như Ông Cha ta có lời khuyên thế này: Khôn văn tế, dại văn bia(có vẻ hơi cơ hội chủ nghĩa!!!). Văn Cụ Khiêu có thể gọi là Văn tế được không ạ? Nếu là văn dùng tế lễ thì đọc xong đốt thế là lời vàng ý ngọc gì cũng hóa thành tro bay theo gió. Thế là khôn. Cắc cớ gì mà phải in ra, phổ biến khắp nơi nơi? Tiến Đặng đọc bài này thấy nhiều lời mà ít ý, sáo sáo làm sao ấy. Thế mà lại in trên báo, trên sách. Thế là dại.
Kẻ hậu sinh này nếu thất lễ cũng xin được cúi đầu nhận lỗi.
Trùng hợp thế mới tài, chiều qua em có hỏi đứa cháu em là cu Tũn đúng câu cô con gái diệu của bác SH, nó bảo:” cháu không biết, nhưng mai đến lớp cháu sẽ hỏi bạn Mai Vũ lớp cháu rồi sẽ chuyển câu trả lời cho cậu. Cậu yên tâm, thằng Vũ nó tài lắm, gì nó cũng biết, mà nó vẫn kể chuyện cho bọn cậu nghe trên quechoa đó”. Nhưng hôm nay giỗ Tổ cu Tũn được nghỉ học. Chắc sáng thứ hai tuần sau, em sẽ xung phong đèo cu Tũn đi học rồi đến hỏi Mai Vũ trực tiếp luôn. Có câu trả lời em sẽ post lên ngay. À, mà cần gì đợi đến thứ 2 nhỉ, ba hồn bảy vía Mai Vũ đang ở đâu thì về quechoa kiến giải cho các bọ với nào.
Khiếp thật, nghe tỷ nghìn tỷ chi cho mấy cái đền thờ xi măng mới thấy các dự án
……………..
thì ta đang sống trong thời kỳ … đồ đểu mà bác dong, mấy nghìn đó là xây mới như thế đang đỡ. có cá đang yên lành cũng tự nhiên lập dự ớn cái tạo. mà nói đâu xa trên Vietnamnet có vụ :”Phó Thủ tướng lưu ý “TKV cần thật kỹ lưỡng trong việc chọn phương án vận chuyển alumin”, yêu cầu “Bộ Giao thông Vận tải trong hai tuần tới phải hoàn thành và trình phương án vận chuyển tối ưu nhất, cùng với những đề xuất về phương thức triển khai với chủ đầu tư””, thử hỏi 2 tuần thì mần cái gì ???
… không hiểu nối…
Nước mình có nhiều cái lạ :
_ 2 ngày dành cho phụ nữ, một ngày 8-3 kỉ niệm chung với thế giới và ngày phụ nữ VN vào tháng 10 ( Bên Đức người ta không kỉ niệm ngày phụ nữ 8/3 nữa, mà tổ chức kỉ niệm ngày bà mẹ )
_2 ngày dành cho giáo viên 20-11 quốc tế, và 1 ngày nhân dịp cụ Hồ gửi thư cho ngành giáo dục
Rồi còn rất nhiều ngày “lạ” khác, ngày tái lập tỉnh..cũng kỉ niệm ( nhập vô, tách ra..tái lập tỉnh), Gần đây cái mốt “kỉ niệm” cũng mọc lên như nấm, ngoài cái ngày giải phóng thủ đô, đâu đâu cũng kỉ niệm ngày giải phóng…VTV4 đưa cuộc mit tinh ngày giải phóng thành phố Hải Dương, các vị quan khách trung ương về dự, các vị quan tỉnh lên phát biểu đọc mãi không hết danh sách kính thưa..mãi chẳng thấy “thưa”, mà cắt xén cho nó gọn thì sợ…cái “thằng” ni ..hỗn, thôi thì “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”..lê thê dài dòng 1 tí, nhưng an toàn, chả gì cũng có câu an toàn là bạn, tai nạn là thù..hàng ngày đọc ra rả quên răng được. Cứ cái đà ni, tỉnh mô cũng kỉ niệm giải phóng…mà chỉ cách nhau dăm ba ngày..thử hỏi các vị ở “trển” đi dự mần răng cho hết, rồi biết đâu theo gương trên, huyện, xã cũng kỉ niệm ???ối giời ôi..
@bác DC, 2 ngày phụ nữ thì có, nhưng 2 ngày giáo viên iem nhớ không rõ lắm, nếu sai, bác đính chính nhé
Anh Cú đỉn ơi, em là nữ em thích có nhiều ngày phụ nữ, em là giáo viên em thích có nhiều này nhà giáo… để được liên hoan, được nghỉ, tụi em chỉ có chừng ấy cái sướng thôi. Mà anh nói chưa hết đâu, còn được nghỉ ngày thành lập trường nè; kỉ niệm 1 năm, 2 năm, 3 năm…ngày đồng chí X,Y,Z về thăm nè; kỉ niệm 1 năm, 2 năm, 3 năm…ngày đón nhận huân chương, huy chương nè; thỉnh thoảng còn được nghỉ để tập đông diễn chào mừng các ngày lễ nè; cô trò ra xếp hàng ngoài đường để vẫy cờ chào đón đồng chí X,Y,Z về thăm nè; nhưng các đồng chí ấy ngồi trong xe ô tô có công an hụ còi hộ tống, chẳng thấy mặt mũi các đồng chí ấy ra sao cả nè… Xin lỗi, hổng biết hôm nay sao mà em nè nè nè hơi nhiều.
to CúĐỉn72@: Ở Việt Nam có 2 ngày lễ cho Phụ nữ là đúng. Còn cho giáo viên là chỉ có 1 ngày thôi. Đó là ngày 20/11 và cũng là ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo.
Xem thêm:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y_nh%C3%A0_gi%C3%A1o
Khiếp thật, nghe nghìn tỷ nghìn tỷ chi cho mấy cái đền thờ xi măng mới thấy các dự án này “thơm: cỡ nào. Giá như…
Mà nếu cứ đặt câu hỏi “khó” kiểu như bác SH về ai là cha, ai là mẹ rồi căn cứ đâu để biết ai Tổ bố, ai tổ con ai tổ… quạ thì bằng đánh đố cả cái Viện sử nhà ta.
Ở đâu đó người ta còn đặt tượng Hồ Chí Minh ngay dưới chân Đức Phật, kiểu như Người là một môn đệ của Ngài. Cái đó là bậy !
Trong một số nghi lễ xung quanh ngày giỗ Tổ, thấy xuất hiện bóng các vị sư sãi, cái đó cũng bậy luôn, bởi không có căn cứ nào cho hay rằng thời Lạc Long Quân hay 18 đời vua Hùng đã có Phật giáo tại nước Văn Lang.
Xét cho cùng, có thờ có thiêng, cứ thành tâm nhang khói thì các Vị ấy sẽ động lòng mà không phù ngang cũng hộ dọc. Dĩ nhiên là đừng có mang 4000 lít rượu ra PR, né lệnh cấm quảng cáo rượu như cái nhà ông AA gì đó là được rồi ( Tui thỉnh thoảng cũng có xài tới Vodka nhưng nói thiệt là sẽ không để cho cái bọn mang Tổ tông ra kinh doanh ấy lấy được một xu !)
Xung quanh những rùm beng rối rắm Tổ cha, Tổ con…như bác SH nêu lên, chúng ta lại thấy rằng việc áp đặt mệnh lệnh hành chính một cách võ đón và bừa bãi vào đời sống tâm linh, vào các phong tục ngàn đời truyền lại của các cấp chính quyền hiện nay. Tốn kém tiền bạc là một chuyện, việc làm rối loạn những phong tục tập quán dân gian có khi là những sai lầm không thể sửa được. Di sản văn hóa vốn bền vững nhưng cũng hết sức monh manh, dễ tổn thương. Phải hết sức cẩn trọng.
chung quy là đo (để) kiếm ngân sách mà ra cả !
Cho nhà em spam phát … đọc mà điên cả ngài:
“Cả chủ đầu tư là Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) và các tỉnh đều chưa khẳng định được tính khả thi của các phương án vận chuyển alumin từ Tây Nguyên xuống cảng biển. ” http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/201004/Boxit-Tay-Nguyen-Tim-duong-de-xuat-khau-alumin-905993/
– Ông Dương thường trực đâu ra trả lời công luận ??? rằng bà con… thiếu tính xây dựng… bị các thế lực …
ngoài ra Bác Mạnh đã nói rằng hạn chế xuất khẩu thô, các bác khác thì nói xây dựng tổ hợp… Nhôm… nhưng mà giờ xuất thô là thế nào ? … đau thêm là xuất mà không biết vận chuyển… lõ hay lãi… lỗ hay lãi ???
Thế thì nghỉ giổ tổ mà làm gì nhỉ ???
Bị lừa đấy OCO@ ạ. Là dân ta bị lừa đấy. TQ họ thuê đất Cam pu chea ngay bên cạnh khu khai thác, họ sẽ chứng minh rằng đưa quặng qua đó tiện và rẻ hơn đưa về cảng biển, và thế là họ đào, họ độc quyền mua sản phẩm. Một bà bán xôi cũng chẳng khờ khạo để mình rơi vào một vụ làm ăn thua đơn thiệt kép như thế. Về cho chuyện này chỉ còn cách chửi đổng và ngồi xem của cải tài nguyên ra đi thôi. Xui xẻo xho bầy con cháu vua Hùng hôm nay là có một bầy vua…dốt mà tham quá.
Hihi, hổng phải bắt giò bắt cẳng gì nhau, nhưng huyền sử ghi rõ như vầy.
Bố Lạc Long Quân bảo Mẹ Âu Cơ : E hèm, tui giống Rồng, khoái nhậu nhẹt lai rai nên muốn ở gần biển cho có mồi hải sản, còn bu mày là Tiên nên mê măng tre với rau rừng. Thôi thì mỗi người dắt 50 con, tui xuống biển nhậu cho mát đây.
Mẹ Âu Cơ nói: Ừa, vậy cũng được, tòa cũng xử vậy thôi à. Nhưng xuống ấy nhớ làm ăn đàng hoàng nghe, nhậu nhẹt cũng vừa thôi, bồ bịch em út bỏ bớt đi. Nhớ đưa con cả là Lân Lang làm vua đầu tiên của nước Văn Lang, đặt tên là Hùng Vương thứ nhất nhé.
Còn 50 con theo tui sẽ ở lại núi rừng, theo Mẫu hệ mà làm ăn.
Ui, vậy mà đại ca Sao Hồng lại biểu theo Bố lên rừng, theo Mẹ xuống biển, biết có được nhậu nhẹt gì hông ?
Phụ nữ là chúa ghét nhậu mờ !
Cả hai bác đều bảo như nhau,mẹ lên núi,cha xuống biển.Bác LD làm AM lên núi xuống biển,xuống biển lên núi chóng cả mặt.
Mà bác ạ,mấy sư tỷ muội không nhậu thì thôi,chứ nhậu thì bác phải nghiêng mình kính nể đấy.
Ở vùng núi Trà Linh_Quảng Nam: Cở AM mấy sư tỷ muội chấp uống sau nữa ngày.Mới tinh mơ các sư tỷ muội súc miệng một chai 0,65L 39 độ rồi mới làm gì thì làm.Trung bình mỗi ngày các tỷ muội ấy đổ nhẹ khoảng 2,5L nếu không gặp bạn nhậu.Đó là chuyện trên núi nhé.
….Ở SG có cái quán nhỏ bán ốc rất ngon ở Q.Bình Thạnh(AM sẽ chét địa chỉ sau,chứ hôm đến đó cũng tối nên không để ý đuờng sá).Mấy sư tỷ muội ở đây chơi Ken chai đông sương(để lạnh gần như đá)uống bằng ống hút,hút ba hơi một chai,cứ hai tỷ muội chia nhau một thùng,uống hết đi chổ khác….uống tiếp.Uống kiểu này thì xong ba chai sẽ thấy công dụng..hehe.
Ở Tam Kỳ_Quảng Nam thì bác đọc ở đây:
-http://www.tuoitredatquang.com/f/tam-ka/54991-tam-ka-teen-girl-vao-ban-nhau.html
Đây chỉ mới là Teen thôi nha,gặp sư mẫu của Teen là AM xách bị chạy mất.
Riêng từ đèo Hải Vân trở ra Bắc,nếu gặp các sư tỷ muội rủ nhậu thì điều lành nhất là…Tẩu Vi Thượng(nếu còn muốn toàn thây mà về với bác gái).Hầu như hiếm có tỷ muội nào chịu về trước hai giờ sáng.
Sao bác bảo phụ nữ ghét nhậu nào…….
“Mới tinh mơ các sư tỷ muội súc miệng một chai 0,65L 39 độ rồi mới làm gì thì làm.Trung bình mỗi ngày các tỷ muội ấy đổ nhẹ khoảng 2,5L nếu không gặp bạn nhậu…”
************
Kinh!
@DC:Thực vậy đó bác,các sư tỷ muội ấy súc miệng xong đi làm.Lai rai đến trưa một chai,trưa đên chiều,đến tối không xác định được,tuỳ hứng.Ở đây AM chỉ tính trung bình.Bác đọc ở đây nè:
-http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/310946/Uong-ruou-tren-dinh-Ngoc-Linh.html
Bác có gặp mới thấy nể,đó là AM chưa kể trẻ em dưói 18 đấy nhé.Nói không tin,thấy mới tin.Hehe.
Không về nhớ mẹ thương cha
Về thì cháy cửa cháy nhà thương dân
(ca dao Nghệ Tĩnh)
BSD.
Kỳ nhông là ông Kỳ đà
Kỳ đà là cha Tắc kè
Tắc kè là mẹ Thuồng luồng.
Thuồng luồng lên ngôi vua gọi là Kinh Dương Vương
Kinh Dương Vương là bố Lạc Long Quân
Lạc Long Quân là chồng Âu Cơ
Âu Cơ đẻ ra một bọc
Một bọc nở ra trăm trứng
Trăm trứng nở ra trăm con nòng nọc
Nòng nọc đứt đuôi thành con cóc
Con cóc nhảy lên bờ
Con cóc là cậu Kỳ Nhông
Kỳ nhông là ông Kỳ đà
Chào bác Cốt Thép, lâu không gặp bác, hôm nay ngày giỗ mới được gặp bác, bác có khỏe không?
BSD.
Cảm ơn BSD, Cốt Thép vẫn khỏe.
Bác Cốt Thép lại muốn học bà “tiến sĩ NB ” hả, He He
Cốt Thép không có học ai hết.
Sự thật là hồi nhỏ Cốt thép cũng khoái Rồng, khoái Tiên lắm. Tiếc rằng khảo cổ học không phát hiện ra hóa thạch của Rồng, của Tiên mà chỉ phát hiện ra hóa thạch Khủng long mà thôi! Ôi đau buồn làm sao ?
Tuy nhiên gần đây, qua công nghệ gen, các nhà khoa học đã chứng minh rằng tất cả loài người đều có chung một ông tổ, bà tổ là cụ tổ khỉ đực, khỉ cái ở TRUNG PHI.
Theo thiển ý của Cốt Thép chúng ta nên rước một cặp khỉ ở Trung Phi về thờ làm cụ tổ. Có thể có nhiều người bị sốc với đề nghị này và cho là CỐT THÉP báng bổ tổ tiên, nhưng những gì là sự thật đã được khoa học chứng minh thì phải được tôn trọng.
Bài thơ ni cụa Bác Cốt Thép răng giống bài hát mà trẻ con hay hát hè ?
Chim Ri là dì Sáo Sậu
Sáo Sậu là cậu Sáo Đen
Sáo Đen là em Bồ Các
Bồ Các là bác Chim Ri
Hi Hi Hi
Quechoa lắm người tài thật, bài viết gon gàng, văn phong khúc chiết mà không thiếu chất hóm hỉnh… vấn đề đặt ra rành mạch .Từ nơi xa CD có nhời cám ơn và hát mấy câu “tụng ca” các đc DC, Dong, Lac Dan…Sao Hong , KD nữ sĩ..các bậc ấy đáng ngồi mâm Tiên chỉ.
Chào anh Cú ! Ợ bển hôm ni nhớ hướng về cội nguồn ngày Giỗ Tổ chứ đừng hướng về chai riệu 4000 lít mà say anh Cú nhé ! Hiii
Nghe bác Cúđỉn@.. khen rứa em sướng âm ỉ !
He he…
Đây là hôi chứng Dự án mà. Phải lập thật nhiều dự án thì mới có nhiều tiền được. Càng nhiều ông Tổ càng tốt.
Không có thời gian, chỉ ghé vài blog khi rảnh rỗi, hôm nay ngày giỗ tổ Hùng Vương, vào Quê Choa mới biết được chuyện này!
Thật hết biết nói sao nữa, đúng là chuyện thật như đùa!
Than ôi!
BSD
tem..hụt…
chùa hương (chùa hương và động hương tích) ở hà tây chứ đâu có chùa hương ở phú thọ hả chú?
Tem hoangdung@. Chào bọ Lâp và đ/c Sao Hồng.
Huy chương CHì
xem hình ở đây
http://www.baoxaydung.com.vn/PrintPreview.aspx?ID=22700
Khiếp ! Toàn tiền trăm tỷ ngìn tỷ cả ! Mà không thấy bà chủ tịch nói gì đến “hiệu quả” mà chỉ khoe dự án này dự án nọ, mặc dù phóng viên dã hỏi rất cụ thể !
Khiếp ! Toàn tiền trăm tỷ ngìn tỷ cả ! Mà không thấy bà chủ tịch nói gì đến “hiệu quả” mà chỉ khoe dự án này dự án nọ, mặc dù phóng viên dã hỏi rất cụ thể !
Cảm ơn Putinka@…
Cá nhân em thấy các đền thờ “Tổ” Long Quân, xấu , rất cực kỳ xấu, đây là 1 thứ kiến-trúc-hàng-mã chứ chẳng hàm chưa nội dung gì, lại càng không thể hiện bất kỳ biểu tượng gì.Vì đơn giản là chỉ mấy con chim lạc bằng bê tông cốt thép quá xấu và quá trơ trẽn.
Putinka@.. từ Nga về dự giỗ quốc tổ mới rồi à ? Có hiếu lễ với… truyền thuyết tổ tiên hè ? He he..
Chào bọ Lập
Chào hoangdung và bà con! Bọ ra ngoài lát nữa về, MH trực Chiếu trưa nay, bà con khỏe vui nhé!
Chào anh chánh VP trực chiếu rượu ngày Giỗ Tổ có phong bì phong bao nhụ MĐ cất giùm nhé ! Kẹo anh lên cơn hen thì phong bì nó bay theo gió mất đọ. Bảo trọng nha (~_~)
Chào Hoangdung và bà con, chúc bà con cuối tuần vui vẻ